|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
CHƯƠNG THỨ BA
Ðể tiện việc tham khảo phần trên đây được thêm vào. Nguyên bản chánh không có.
CHƯƠNG THỨ BACỬU TRÙNG ÐÀI QUYỀN HÀNH CHÁNH
TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH CỦA ÐẠOSự tổ chức bắt đầu từ dưới lên trên. Nền móng tổ chức nầy là Hương Ðạo, nhiều Hương Ðạo lập thành Tộc Ðạo, nhiều Tộc Ðạo lập thành Châu Ðạo, nhiều Châu Ðạo lập thành Trấn Ðạo. Các Trấn Ðạo trực tiếp liên lạc với Cửu Viện, tức là 9 Viện, đối chiếu Lục Bộ Thượng Thơ của Triều Ðình, hay Hội Ðồng Tổng Trưởng theo chế độ dân chủ. Từ Trấn Ðạo trở xuống thuộc về Hành Chánh Ðịa Phương, còn từ Cửu Viện trở lên là cơ quan trụ cốt ở tại Tòa Thánh, cầm quyền cai trị toàn Ðạo.
BẢNG TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH CHÁNH
Ðể ý: Trong lúc loạn Ðạo, ba vị Ðầu Sư cầm quyền thống nhứt, dầu GIÁO TÔNG hay HỘ PHÁP cũng phải tuân mạng. ÐẦU SƯ, GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP hiệp lại thường gọi là "Hội Thánh Anh".
Ðiều chưa từng thấy và rất nên đặc biệt chú ý trong Chánh Trị Ðạo là "Hội Thánh Em" tổ chức tại Hương Ðạo.
Vậy Ðạo Cao Ðài có một Hội Thánh Anh mà hằng hà sa số Hội Thánh Em, vẫn tấn hóa mãi mãi lên và nhờ như vậy không một quyền lực nào có thể diệt tiêu Hội Thánh của Ðạo Cao Ðài cho được.
HÀNG PHẨM ÐỐI QUYỀN
Trong việc Hành Chánh nam, nữ đều phân quyền. Mỗi vị Thượng Thống có một Phụ Thống và nhiều thừa quyền Phụ Thống giúp việc. Trong các Hương Ðạo thì Bàn Trị Sự nam, nữ cũng hành sự riêng biệt. Hội Thánh phái nữ cũng tổ chức y như Hội Thánh nam phái, duy có một điều là phẩm cùng tột của Nữ là ÐẦU SƯ.
QUYỀN HÀNH( Xem rõ trong Pháp Chánh Truyền chú giải ) GIÁO TÔNG: Giáo Tông là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa dìu dắt toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung nạp tâm lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên Triều, trọn cả đường Ðạo và đường Ðời cho trọn câu Thể Thiên Hành Hóa. Ngôi Giáo Tông là tột bực của loài người, mà chỉ truyền hiền, chớ không truyền tử. Như thế mới có thể lập đời Thánh Ðức trường tồn được. Tại sao quyền CHÍ TÔN lại chia làm hai? Trước kia Ðạo Thánh, CHÍ TÔN vì quá thương Nhơn sanh, đã giao phần hồn và phần xác cho Ðức Chúa Giê Giu (Jésus Christ) đủ quyền năng lập Ðạo. Trái lại, Nhơn sanh lợi dụng lẽ thương yêu ấy, nhứt là những kẻ kế vị cho Chúa, vì mang phàm thân nhục thể, thành ra quá lạm dụng quyền tối cao ấy như ngọn gươm bén mà sát phạt con cái của CHÍ TÔN. Chính CHÍ TÔN đã nói: "Vì quá thương mà ban cho". Ngày nay CHÍ TÔN cũng không phải đến lấy lại, mà chỉ chia đôi quyền hành ấy ra cho Giáo Tông và Hộ Pháp, Giáo Tông chỉ có quyền dìu dẫn con cái của CHÍ TÔN về phương châm giáo hóa, chánh trị cho thuần phong mỹ tục, thay quyền cho CHÍ TÔN trong đường Ðạo và đường Ðời mà thôi. Còn Hộ Pháp có đặc quyền gìn giữ luật pháp, bảo thủ chơn truyền, gìn giữ ngôi vị cho con cái CHÍ TÔN, không cho loạn hàng thất thứ. Phương pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng và chia đôi cho lưỡng quyền không thể chuyên chế để áp dụng mà hà hiếp con cái của người. CHƯỞNG PHÁP: (Cardinal Censeur) Ba vị Chưởng Pháp là người có phận sự đặc biệt của Hiệp Thiên Ðài mà phẩm vị lại ở bên Cửu Trùng Ðài. Ấy là Thánh Ý của Ðức CHÍ TÔN muốn Cửu Trùng Ðài phải có Hiệp Thiên Ðài chăm nom gìn giữ làm thế nào cho nền Chơn Giáo của Ðức CHÍ TÔN không qui phàm. Nhờ vậy mà Chánh Trị Ðạo không tự tung tự tác, tự do canh cải mà làm mất nét đạo đức, để xứng đáng là một nền chánh trị của Trời tại thế có sự công bằng hi hữu vậy. Tại sao Thượng Chưởng Pháp mặc áo trắng? Thượng Chưởng Pháp có quyền thay thế cho Giáo Tông khi vắng mặt (Pour remplacer le Pape par intérim). Áo của Giáo Tông màu trắng tức là màu nguồn gốc của Ðạo. Ðạo không màu sắc, hay tượng trưng một màu rất trong sạch là trắng, là màu vô tội, trắng có thể biến ra các màu vàng, xanh, đỏ, v.v... Trở lại màu trắng tức là qui hồi căn bổn vậy. ÐẦU SƯ: (Cardinal) Ðầu Sư là Thầy của các Thầy khác. Người có nửa quyền Tư Pháp và nửa quyền Hành Chánh. Người đứng trung gian giữa Giáo Tông và Chánh Phối Sư, nghĩa là giữa người cầm quyền cai trị tối cao và người đại diện của Nhơn sanh là kẻ bị trị. Ðã được trách vụ quan trọng như thế, nhưng không có quyền trực tiếp thân cận với Nhơn sanh, việc chi cũng phải đi ngang qua tay Chánh Phối Sư mới được. Nếu không truất quyền ấy thì Ðầu Sư có thể giục loạn, làm cho con cái của CHÍ TÔN phải chia phe phân Phái. Bởi cớ, nên khi nào có loạn Ðạo, Ðầu Sư được cầm quyền thống nhứt, dụng độc tài mà trị loạn, dầu cho vị Chức Sắc Thiên Phong nào nhỏ hay lớn, cho đến Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải tuân theo mạng lịnh của Người khi hành sự. Nhưng khi nào hết loạn Ðạo thì không được dùng quyền thống nhứt nữa. CHÍ TÔN lập Ðạo, phân phát quyền hành cho mỗi con cái của người, nhưng vẫn hạn định đặng tránh sự bất công. Tại sao truất quyền thân cận với Nhơn sanh? Chỉ có phẩm Ðầu Sư và Chưởng Pháp được quyền tranh cử, nếu khuyết ngôi Giáo Tông. Nếu không truất quyền thân cận với Nhơn sanh của Ðầu Sư thì Chưởng Pháp không trông gì tranh cử đặng. PHỐI SƯ: (Archevêque) Phối Sư là người cầm đầu giềng mối chánh trị của Ðạo, có 36 vị, chia ra làm 3 Phái, mỗi Phái 12 vị, trong 12 vị phải có một vị Chánh. THÁI CHÁNH PHỐI SƯ: Lo về mặc Tài Chánh, gìn giữ sản nghiệp của Ðạo, làm Chủ Tọa Hội Thánh. Dưới quyền Thái Chánh Phối Sư có 3 Viện:
THƯỢNG CHÁNH PHỐI SƯ: Lo về mặt ngoại giao với Chánh Phủ, giữ quyền giáo hóa, làm Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh, dưới quyền có 3 Viện:
NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ: Nắm quyền tạp tụng, cầm quyền Chủ Trưởng Chức Sắc, lo việc văn từ, chưởng quản 3 Viện:
Cả 9 Viện trên đây họp lại gọi là Cửu Viện Nội Chánh, tức là Nội Các của Ðạo vậy. GIÁO SƯ: (Evêque) Giáo Sư cầm quyền cai trị của Ðạo trong một Trấn, hay một nước. Toàn thể Ðạo có 72 vị Giáo Sư chia làm 3 Phái: Thái, Thượng, Ngọc, mỗi Phái 24 vị, chẳng đặng tăng thêm hay giảm bớt. Giáo Sư được rộng quyền dạy dỗ Nhơn sanh trọn vẹn đường Ðạo và đường Ðời. Có quyền xin chế giảm luật lệ cho hạp với trình độ trí thức, hay sanh hoạt của Nhơn sanh. GIÁO HỮU: (Prêtre) Giáo Hữu cầm quyền cai trị của Ðạo trong một Châu hay rộng hơn, sau nầy trong một nước nhỏ, được quyền thân cận với Nhơn sanh đặng phổ thông Chơn Ðạo của Thầy, thay mặt Giáo Sư khai đàn cho chư Ðạo hữu. Cả thảy có 3.000 Giáo Hữu, không đặng tăng thêm hay giảm bớt, chia ra mỗi Phái là 1.000 người. Giáo Hữu cũng có quyền xin chế giảm luật lệ như Giáo Sư, nhưng phải đi theo đẳng cấp. LỄ SANH: (Elève Prêtre) Thánh Giáo của Ðức CHÍ TÔN nói rằng: Lễ Sanh là đứa có hạnh trong con cái của Thầy lựa chọn, để hiến lễ trọng cho Thầy. Nhờ ơn Ðức LÝ GIÁO TÔNG định cho, theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ ba, điều thứ hai cho Lễ Sanh được cầm quyền Hành Chánh một Tộc Ðạo. Số Lễ Sanh không có giới định, bao nhiêu cũng được. Phải vào hàng Lễ Sanh mới mong nhập vào Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN được.
THIÊN PHỤC(Thiên Phục của Chức Sắc nam, nữ xem Pháp Chánh Truyền) Về Tiểu Phục Nam Phái: Do theo ý nguyện của Hội Nhơn Sanh năm Bính Tuất, được Hội Thánh năm Ðinh Hợi và Thượng Hội năm Mậu Tý phê chuẩn cho Chức Sắc Hành Chánh nam phái được mặc một kiểu Ðạo phục mới, thế vì cho Tiểu Thiên phục. Ðạo Phục mới nầy gồm có: 1. Một áo cổ bẻ, tay chẹt, giống như Ðạo phục của Chức sắc Hiệp Thiên Ðài, yếm tâm dài tới bụng, đơm 9 nút, ý nghĩa là Cửu Trùng Ðài. Bề dài áo nầy còn 15 phân nữa thì chấm đất. 2. Một cái áo choàng ngoài, may bề dài, dài hơn áo trong 5 phân, và hai bên may dính lại, chỉ chừa mở dài xuống ngay phía bụng. Cổ như cổ áo Bà Lai rộng, làm thế nào để nó có thể chừa vỏn vẹn cổ trong ra ngoài. 3. Một biểu hiệu hình chữ nhựt (5 phân x 3 phân) sơn màu theo sắc Phái và có chữ Nho (lối cổ tự) ghi phẩm vị của mỗi người, mang bên tay trái, ngay trái tim. (Vì cổ tự ít người đọc được, nên sau nầy cho để chữ quốc ngữ). 4. Về phần mão thì dùng mão Tiểu phục cũ, song tất cả đều đổi lại màu trắng. Sau nầy, có lịnh mới cho Chức Sắc nam phái được dùng khăn đen thường thế vì mão Tiểu phục.
PHƯƠNG PHÁP LẬP VỊ
|
1. | Hễ vào Ðạo rồi, tức nhiên đứng vào hàng | Ðịa Thần |
2. | Bàn Trị Sự (Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự) vào hàng | Nhơn Thần |
3. | Lễ Sanh | Thiên Thần |
4. | Giáo Hữu | Ðịa Thánh |
5. | Giáo Sư | Nhơn Thánh |
6. | Phối Sư | Thiên Thánh (1) |
7. | Ðầu Sư | Nhơn Tiên |
8. | Giáo Tông | Thiên Tiên tức là Phật vị |
Từ hàng Giáo Hữu trở lên, con số đã qui định sẵn rồi, hiện giờ nền Ðạo đang trong thời kỳ phôi thai, còn dễ dàng cho con cái Ðức CHÍ TÔN lập vị mình. Khi Ðạo đã phổ thông khắp địa cầu nầy, con số Thánh Thể Ðức CHÍ TÔN đã đủ người đứng vào phẩm vị, thì sự thăng vị ấy nhận thấy khó khăn vô đối.
Số Lễ Sanh thì hằng hà, bao nhiêu cũng đặng, cũng chia ra 3 Phái: Thái, Thượng, Ngọc. Thảng như có một vị Giáo Hữu Phái Thái qui liễu, tất cả Lễ Sanh xúm nhau công cử một vị Phái Thái đặng thay thế, mà chỉ chọn một người của Phái Thái thôi, còn hai Phái kia còn chờ đợi.
Một thí dụ nữa: Như có khuyết phẩm Giáo Sư Phái Thượng, cả thảy Giáo Hữu xúm nhau công cử một vị trong 1.000 vị Giáo Hữu Phái Thượng cho thăng vị, còn 2.999 vị kia phải chờ đợi, sự quan hệ do ở con số mà cũng do nơi sắc Phái nữa.
Cũng vì các sự khó khăn trên đây, nên những Chức sắc Hàm phong hay hưu trí (quá 60 tuổi) không còn kể vào con số nhứt định của Thánh Thể đương quyền Hành Chánh được.
Hai ví dụ nói trên về hàng Thánh Thể, nghĩa là từ Giáo Hữu (hàng Thánh) trở lên, còn về phần Bàn Trị Sự trong Hương Ðạo, cách thức công cử cũng đã có phần khó nhiều rồi. Ðược đứng tên vào sổ Cầu phong lên Lễ Sanh phải là Chánh Trị Sự đầy đủ công nghiệp 5 năm và tròn trách vụ. Bực Ðạo hữu muốn lên Chánh Trị Sự, phải bao nhiêu công đức. Tỷ như trong Hương Ðạo có 4 Ấp (hay Lý), mỗi Ấp lẽ cố nhiên có một vị Thông Sự và một vị Phó Trị Sự, cả 4 Ấp cộng lại là 8 vị, nếu cứ theo thứ tự mà công cử mỗi ông làm Chánh Trị Sự một khóa thì vị nào chót cũng phải mất (5 năm x 8 người) 40 năm mới được dự sổ cầu phong, thì chừng ấy đã lụm cụm rồi. May mắn thay, thỉnh thoảng cũng có kỳ ân xá và thăng thưởng về công nghiệp phi thường do quyền CHÍ TÔN ân tứ.
Ấy vậy, trong trường đoạt vị, chỉ có lập công và bồi đức là biết tùng Thánh ý của Ðức CHÍ TÔN, vì phẩm vị tại thế nầy đối hàng với phẩm vị Thiêng Liêng, nên càng khó khăn, càng có giá trị xứng đáng.
(1) Theo chữ Nho thì chữ Phối có nghĩa là "so sánh" nên phẩm Phối Thánh là so sánh ngang hàng với phẩm Thánh, nên Phối Sư là Phối Sư, còn Phối Thánh là Phối Thánh, chớ Phối Thánh không phải là Phối Sư.
Theo Nho Giáo có 4 phẩm Thánh kể từ trên xuống là Tôn Thánh, Thuật Thánh, Á Thánh và Phối Thánh.
Chiếu theo Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938) về khoản cầu phong của Hành Chánh thì mọi người đều phải chịu điều kiện 5 năm công nghiệp đầy đủ và tròn trách nhiệm ở phẩm Chánh Trị Sự, mới được đem tên vào sổ cầu phong Lễ Sanh.
Song cũng có nhiều trường hợp cầu phong vào hàng Lễ Sanh qua khỏi mặt luật ấy, do nơi quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo ban cho:
Giáo Nhi
Lễ Sĩ
Ðầu Phòng Văn
Bảo Thể Quân
Tạo công: Sở Mộc và Sở Hồ
Giáo viên trường Ðạo Ðức
Sĩ Quan Cơ Thánh Vệ
Bộ Lễ, Nhạc
Ðiều Dưỡng Viên Bộ Y Tế.
Giáo Nhi, do nơi Sắc Lịnh số 51 đề ngày 9 tháng 11 năm Bính Tý (22 12 1936) năm thứ 10 (*), thì Giáo Nhi và Lễ Sĩ trọn hiến thân và có cấp bằng của Hội Thánh, cứ đủ 5 năm công nghiệp thì đặng thăng thưởng Lễ Sanh, khỏi phải đem ra quyền Vạn Linh công nhận.
Còn những Giáo Nhi nào theo mặt thế, nghĩa là có chồng con mà còn hành sự tại làng của mình, thì buộc mỗi năm dạy cho được 36 Ðồng Nhi, Chức Việc sở tại, mới được đem vào sổ cầu phong.
Ðầu Phòng Văn đủ 5 năm công nghiệp hành sự kể từ ngày được chấm đậu do khoa mục tại Tòa Thánh.
Bảo Thể Quân đủ 5 năm công nghiệp hành sự tại Tòa Thánh ở địa vị Chánh Bảo Thể.
Châu vi Tòa Thánh có cơ quan Công thợ Sở Hồ và Sở Mộc, chưa định hàng phẩm tương đối với các cơ quan khác, để mở đường lập vị, nên mới có Thánh Lịnh số: 231/TL ngày 9 tháng 7 Canh Dần, đặt riêng cho Công thợ những danh từ và chức vụ như vầy:
Tá Lý coi về một Sở.
Phó Tổng Giám làm đầu nhiều Sở dưới quyền Tổng Giám.
Tổng Giám kiểm soát toàn thể các Sở.
Những chức vụ nầy đối hàm như vầy:
Tá Lý đối hàm Chánh Trị Sự hay Hành Thiện.
Phó Tổng Giám đối hàm Lễ Sanh hay Giáo Thiện.
Tổng Giám đối hàm Giáo Hữu hay Chí Thiện.
Mỗi bậc cũng phải hành sự đủ 5 năm công nghiệp mới đặng thăng lên và tới bậc Tổng Giám thì được Hội Thánh đem ra quyền Vạn Linh công nhận vào hàng Giáo Sư, sau khi đầy đủ công nghiệp.
Giáo viên nam, nữ Ðạo Ðức Học Ðường hành sự đúng 5 năm công nghiệp được ân phong vào hàng Lễ Sanh có Tờ Hiến Thân trọn đời cho Hội Thánh.
Sĩ Quan Cơ Thánh Vệ (Bất luận phẩm nào trong hàng phẩm Sĩ Quan Cơ Thánh Vệ) mà chư vị Bảo Thể đã đắc lịnh bổ dụng trong Cơ Thánh Vệ được đầy đủ 5 năm hành sự được đem tên vào sổ cầu phong Lễ Sanh (Sau nầy Sĩ Quan quân đội có từ cấp Úy đổ lên được xin cầu phong Lễ Sanh).
Ngoài ra các trường hợp vừa kể trên, nơi chương thứ ba, điều thứ 14, khoản thứ sáu, Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938) nói như vầy:
Ngoài ra các vị nhân viên Phổ Tế (tức là Chức sắc, Chức việc thuộc cơ quan Phổ Tế của Hội Thánh) nếu có Chức việc hoặc Ðạo hữu nào độ đặng từ 500 tới 1.000 người ngoại Ðạo nhập môn, thì vị ấy sẽ được Hội Thánh đem ra quyền Vạn Linh cầu xin phong thưởng vào phẩm Lễ Sanh, từ 1.000 tới 3.000 thì được vào phẩm Giáo Hữu.
Từ 3.000 đến 10.000 thì đặng vào phẩm Giáo Sư.
(*) Phụ ghi: Ðạo lịch năm thứ 10.
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
CHƯƠNG THỨ TƯ
HIỆP THIÊN ÐÀI QUYỀN TƯ PHÁP
Ðể tiện việc tham khảo phần trên đây được thêm vào. Nguyên bản chánh không có.
Người ta thường định nghĩa quyền Tư Pháp về mặt Ðời, là biến tánh của quyền Hành Pháp, nghĩa là trong các trường hợp nào mà Pháp luật đem ra thi hành không được tôn trọng, thì người ta dùng quyền Tư Pháp đặng cưỡng chế người tuân theo. Theo nguyên tắc phân quyền thì quyền Tư Pháp là một quyền độc lập, riêng biệt với quyền Lập Pháp và Hành Pháp. Các Tư Pháp Quan là các viên chức bất khả xâm phạm, bất khả bãi miễn, bất khả giáng cách. Quyền Tư Pháp của Ðời để bảo vệ Pháp luật, có nhiệm vụ giải thích tùy trường hợp thực tế, để cho mọi người biết tôn trọng các Pháp luật ấy, nghĩa là giải quyết các vụ tranh tụng quyền lợi giữa nhơn dân (dân sự) và trừng trị những tội xâm phạm Pháp luật (hình sự).
Về mặt Ðạo, quyền Tư Pháp do Hiệp Thiên Ðài đảm nhiệm, có phận sự bảo thủ Chơn truyền của Ðức CHÍ TÔN, gìn giữ các cơ quan Chánh Trị Ðạo đi trong khuôn viên Ðạo pháp.
Chức sắc Hiệp Thiên Ðài chia làm ba Chi thuộc quyền HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM và THƯỢNG SANH chưởng quản.
HỘ PHÁP Chưởng Quản Chi Pháp
THƯỢNG PHẨM Chưởng Quản Chi Ðạo
THƯỢNG SANH Chưởng Quản Chi Thế
Ba Chi đều có phận sự về Tư Pháp, song phân ra như sau đây:
Chi Pháp : Phận sự định án
Chi Ðạo : Phận sự cải án
Chi Thế : Phận sự buộc tội.
Dưới đây là đoạn trích lục trong Pháp Chánh Truyền chú giải (từ trương 48 đến 54, Thái Hòa ấn quán, in lần thứ ba).
Trước khi Thầy lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài, Thầy kêu "Cả chư Môn đệ khá tuân mạng" thì Thầy đã chỉ rõ rằng: Thầy lập Hiệp Thiên Ðài rất trọng hệ là dường nào, sự trọng hệ ấy là chi? Sau đây nên giải rõ:
Cơ Tạo Hóa chỉ có hai bí mật tối trọng, một là quan sát sự hữu hình, hai là xét đoán sự vô vi; quan sát sự hữu hình thì dễ, mà xét đoán sự vô vi vẫn rất khó, hữu hình với vô vi chỉ phân nhau với màn bí mật. Từ thuở tạo Thiên lập Ðịa, dầu cho bực trí thức Nhơn sanh đặng tấn hóa lên tới bực Ðại giác đi nữa, cũng chưa hề có phương thế hé trọn vẹn màn bí mật ấy mà dòm qua phía vô vi cho đặng, nhưng Nhơn sanh đã có sẵn nơi tay một cái chìa khóa, là xem cơ tương đắc của hữu hình và vô vi trong sự sanh hoạt của vạn vật. Vô vi và hữu hình phải hiệp làm một, mới thuận theo cơ tạo. Trời Ðất có âm dương, vạn vật có thể phách, nhơn loại có xác hồn. Sự sống của vạn loại trong Càn Khôn Thế Giới chỉ nhờ có vật chất (La matère) và tinh thần (L'essence) tương hiệp thành hình, cả Vật chất hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn, đều khác đẳng cấp nhau, nên hình thể cũng biến sanh ra khác. Vật chất không giống Thảo mộc, Thảo mộc không giống Thú cầm, Thú cầm không giống Người, Người không giống Thần, Thần không giống Thánh, Thánh không giống Tiên, Tiên không giống Phật, Phật không giống Trời. Nói tóm một lời, hình thể tâm thần đều khác hẳn.
Vật chất (La matère) phải tùng lịnh tinh thần (L'essence) mà lập thành hình tướng. Cái cớ hiển nhiên là hình thể của nhơn loại cũng phải tùy tinh thần mà biệt phân đẳng cấp. Kẻ hung bạo thì hình dung cổ quái, còn người lương thiện thì tướng hảo quang minh, nhờ đó mà cổ nhơn xem tướng đoán tánh người.
Xác phải phù hạp với hồn, cũng như vật chất phải phù hạp với tinh thần, vật chất vốn hữu hình, mà tinh thần lại vô vi, vô vi cùng hữu hình phải tương đắc, thấy hữu hình đoán vô vi, biết vô vi mới định quyết hữu hình.
Ấy vậy, Cửu Trùng Ðài là xác, Hiệp Thiên Ðài là hồn. Ðã nói rằng Cửu Trùng Ðài là Ðời, tức nhiên là xác của Ðạo, còn Hiệp Thiên Ðài là Ðạo, tức nhiên là Chơn Thần của Ðạo, vậy thì xác thịt có định hạn lệ đẳng cấp, chớ Chơn Thần chẳng hề định hạn lệ đẳng cấp đặng. Nhiều Ðấng Thiêng Liêng cao mà lại tái thế muốn ra hèn hạ, còn có nhiều Ðấng Thiêng Liêng thấp, một phen đắc Ðạo lập vị cao trọng tột phẩm, vậy thì Thiêng Liêng không có giới hạn, tức là Ðạo không có giới hạn. Ấy là cơ bí mật của Ðạo vậy.
Chư Hiền Hữu cùng chư Hiền Muội sẽ thấy rằng: Thầy không quyết định trách nhiệm của mỗi người Chức sắc Hiệp Thiên Ðài, bởi cớ mà gây nên lắm điều trắc trở trong phẩm trật của cả Thiên Phong. Nghĩa là để tự nhiên cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Ðài lập vị mình thế nào cho xứng đáng cùng phẩm định.
Cửu Trùng Ðài là Ðời mà Hiệp Thiên Ðài là Ðạo, cho nên buộc Ðời phải nương Ðạo mà lập ra thiệt tướng, mới mong độ rỗi nhơn sanh chuyển cơ Tạo Hóa.
Cái hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Ðài thì không có Ðạo, Trời Ðất qua chớ Ðạo không qua, Nhơn loại tuyệt chớ Hiệp Thiên Ðài không tuyệt (Hay lắm). (1)
Hiệp Thiên Ðài là tay vén màn bí mật cho sự hữu hình và vô vi hiệp làm một, tức là tay làm cho Ðạo với Ðời tương đắc vậy. Vì cớ ấy mà Thầy giáng cơ buộc cả chư môn đệ Thầy chẳng khi nào đặng phép trái mạng lịnh của Thầy.
Dưới đây Thầy đã nói rõ:
P.C.T.: Hiệp Thiên Ðài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng Liêng mối Ðạo, hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.
Chú giải: Thầy là Chúa cả Càn Khôn Thế Giái, tức là Chúa Tể sự vô vi, nghĩa là chủ quyền của Ðạo, mà hễ chủ quyền của Ðạo ngự nơi nào là Ðạo ở nơi ấy.
Thầy đã nói, Hiệp Thiên Ðài là nơi Thầy ngự, ấy là nơi Thầy cầm quyền Thiêng liêng mối Ðạo, vậy Ðạo còn thì tòa ngự của Thầy là Hiệp Thiên Ðài vẫn còn, hễ nói Ðạo chẳng hề khi nào bị diệt, vì Ðạo diệt thì là tận thế, vậy thì Ðạo chưa tuyệt, ắt Hiệp Thiên Ðài cũng không tuyệt (Hay lắm).
P.C.T.: Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị qui phàm là gì khi trước Thầy giao Thánh Giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh Giáo mà lập ra phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa.
Chú giải: Câu nầy Thầy đã nói rõ nghĩa, duy Thầy chỉ than rằng, khi trước Thầy lỡ giao Chánh Giáo cho tay phàm, hễ càng lâu chừng nào thì Thánh Ðức lại càng hao mòn mà phàm tâm lại tái phục, nhơn loại sửa cải Chánh Giáo cho vừa theo thế lực của nhơn tình mà lần lần làm cho Chánh Giáo phải trở nên phàm giáo (Hay).
Nay Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ nhơn sanh mà thôi, chớ không chịu giao nền Chánh Giáo của Thầy cho tay phàm nữa.
Thảng như có kẻ hỏi: Như đã nói vậy, sao Thầy lại giao Thánh Giáo cho tay phàm là Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài là ý nghĩa gì? Trong bài diễn văn của Ðức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh ngày 14 tháng 2 năm Mậu Thìn (5-3-1928) có giải rõ rằng: Thầy đến qui các lương sanh của Thầy đã sai đến trước lại làm một, đặng lập Hội Thánh mà làm hình thể của Thầy hầu tránh khỏi hạ trần trong lúc Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy (Hay).
Hội Thánh ấy có hai phần tại thế: Phần hữu hình là Cửu Trùng Ðài, tức là Ðời, nghĩa là Xác; một phần bán hữu hình là Hiệp Thiên Ðài, nghĩa là nửa Ðời nửa Ðạo, ấy là Chơn Thần; còn phần vô vi là Bát Quái Ðài tức là Hồn, ấy là Ðạo.
Ðã nói rằng Thầy là Chúa Tể của sự vô vi, ắt Bát Quái Ðài thì Thầy là chủ, mà chủ Bát Quái Ðài là chủ của hồn Ðạo, hồn hiệp với xác bởi Chơn Thần, ấy vậy Chơn Thần là trung gian của hồn và xác, xác nhờ hồn mà nên thì Cửu Trùng Ðài cũng phải nhờ Hiệp Thiên Ðài mới mong thành Ðạo (Hay).
Như có kẻ hỏi nữa: Thầy là CHÍ TÔN, huyền diệu vô biên, mà lại nói Thầy không giao Thánh Giáo cho tay phàm nữa, sao lại cũng còn phải nhờ Hiệp Thiên Ðài, cũng tay phàm vậy? Nếu không Hiệp Thiên Ðài, thì Thầy không thể lập Ðạo sao?
Ta lại nói: Thầy là chúa sự vô vi, nghĩa là chúa các việc vô hình, Thầy lại ban cho người đủ khôn ngoan trí thức thiêng liêng đặng làm chúa cả sự hữu hình, nghĩa là chúa cả vạn vật, nếu muốn cho sự vô vi và sự hữu hình đặng tương đắc, thì cả hai ông chúa phải liên hiệp với nhau mới đặng, người có sức sửa cơ Tạo Hóa, song Tạo Hóa cũng tùy người mà làm cho vạn loại trở nên tận thiện tận mỹ.
Chịu dưới quyền Thiêng liêng của Tạo Hóa, sanh sanh, tử tử, luật lệ ấy vốn nơi Trời, số số, căn căn, Thiên Ðiều đã định, người chỉ đặng có một quyền tự lập là mình làm chủ lấy mình, luân luân, chuyển chuyển dồi cho đẹp đẽ Thánh Ðức căn sanh, đặng lên tột phẩm vị Thiêng liêng, mới nhập vào cửa vô vi, đồng thể cùng Trời Ðất (Hay lắm, Lão khen đó).
Quyền tự chủ ấy, vẫn đã định trước đặng làm cho cả Nhơn sanh vui theo tấn hóa, thì dầu cho Thầy cũng không cãi qua đặng, vì hễ sửa cãi, thì mất lẽ công bình thiêng liêng đã định, làm chinh nghiêng cơ thưởng phạt. Hễ có công thưởng, tội trừng thì phải để rộng quyền cho người tự chủ.
Thiên cơ đã lập có Ðịa Ngục với Thiên Ðàng, ấy cảnh thăng, cảnh đọa.
Ðịa ngục dành cho kẻ bạo tàn, Thiên Ðàng cho người đạo đức thì cân công bình Thiêng liêng đã sẵn. Ấy vậy chẳng buộc ai vào Ðịa Ngục, mà cũng chẵng nâng đỡ ai đến Thiên Ðàng. Ðôi đường hiển hiện, tự quyền người lựa chọn, siêu đọa tại nơi mình, các Ðấng Thiêng Liêng duy có thương mà chỉ dẫn.
Thầy đến, nếu dùng cả quyền Thiêng liêng làm cho chúng sanh thấy đặng đủ đức tin theo đường siêu mà bỏ nẻo đọa, thì cả nhơn loại ắt xu hướng vào con đường đạo đức, thì là Thầy nâng đỡ các Chơn hồn vào Thiên Ðàng, không cho vào Ðịa Ngục (Hay) thì sự công bình thiêng liêng bởi nơi nào bền vững. Thưởng phạt ra bất minh, ắt phải truất bỏ cơ luân hồi chuyển kiếp.
Thầy cùng các Ðấng Thiêng Liêng không nhơn thân phàm ngữ, thế nào mà thông công cùng cả chúng sanh, lại càng cao khó vói, khuất không rờ, chỉ nhờ lương sanh giúp công gầy đạo đức, Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài là người giúp công cho Thầy và các Ðấng Thiêng Liêng gầy Ðạo.
Luân hồi chuyển kiếp là cơ mầu nhiệm để cho các chơn hồn đặng cứu chuộc và tấn hóa, nếu truất bỏ cơ mầu nhiệm ấy đi, thì Ðạo do nơi nào mà bền chặt?
Nhơn loại có hóa nhân, quỉ nhân và nguyên nhân, ấy là có phân đẳng cấp, nếu Thầy dùng huyền diệu thiêng liêng mà làm cho nhơn loại cả thảy đều thấy đặng cơ mầu nhiệm của Ðạo, đồng đặng đắc kiếp, thì phẩm vị thiêng liêng cũng không còn trật tự.
Trước đã nói Hiệp Thiên Ðài là Chơn Thần, Cửu Trùng Ðài là xác thịt, Bát Quái Ðài là Linh hồn, hồn đặng tương hiệp cùng xác, phải nhờ Chơn Thần, Chơn Thần lại là bán hữu hình, tiếp vô vi mà hiệp cùng hình thể, cũng như Ðạo tiếp Thánh Ðức của các Ðấng Thiêng Liêng mà rưới chan cho nhơn loại (Hay).
Nhơn loại đặng liên hiệp cùng Trời thế nào thì Cửu Trùng Ðài phải liên hiệp cùng Bát Quái Ðài thế ấy.
Bát Quái Ðài là hồn của Ðạo mà Thầy đã nắm chặt phần hồn, thì xác phải nương theo hồn mới mong giữ bền sanh hoạt, hồn Ðạo Thầy đã nắm chặt rồi thì Ðạo chẳng hề khi nào còn chịu dưới tay phàm nữa (Hay lắm, Hay lắm). Ấy vậy, Thầy nói không chịu giao Thánh Giáo cho tay phàm nữa là tại vậy.
P.C.T.: Lại nữa, Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu, Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại.
Chú giải: Câu nầy đã giải rõ trong chú giải Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài nam phái, nên không cần nói lại.
P.C.T. : Thầy đã nói sở dụng thiêng liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó.
Chú giải: Sở dụng thiêng liêng là Hiệp Thiên Ðài làm trung gian của Giáo Tông cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật nghĩa là trung gian của Cửu Trùng Ðài và Bát Quái Ðài, vì Cửu Trùng Ðài cầm quyền độ rỗi, còn Bát Quái Ðài cầm quyền siêu rỗi (Hay). Cả Chơn Thần toàn trong thế giới đặng tương hiệp nhau, phải nhờ nơi cửa Hiệp Thiên Ðài, ấy là phần thiêng liêng, còn phần phàm trần, thì cầm quyền luật lệ, cũng như Ðạo có phép Thiên Ðiều mà gìn giữ công bình thiêng liêng cơ tạo, chế sửa ngươn tranh đấu ra ngươn bảo tồn, làm cho nhơn loại đặng hòa bình lánh xa cơ tự diệt (Hay).
Thượng ngươn là Ngươn Tạo hóa, ấy là Ngươn Thánh Ðức tức là ngươn vô tội (Cycle de création, c'est à dire Cycle de l'innocence).
Trung ngươn là Ngươn Tấn hóa, ấy là Ngươn Tranh đấu, tức Ngươn Tận diệt (Cycle de progrès ou Cycle de lutte et destruction).
Hạ ngươn là Ngươn Bảo tồn, ấy là Ngươn Tái tạo, tức là Ngươn Qui cổ (Cycle de conservation ou Cycle de reproduction et rénovation).
Dưới Cửu Trùng Ðài có Tòa Tam Giáo, cũng như Bát Quái Ðài có Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng. Khi nào có Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài xử đoán rồi mà người bị cáo còn uất ức hàm oan thì mới kêu nài đến Tòa Hiệp Thiên Ðài. Thảng như có Tòa Hiệp Thiên Ðài xử rồi mà người bị cáo còn uất ức nữa thì phải kêu nài lên Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng là quyền của Bát Quái Ðài Chưởng Quản. Dầu cho lập Tòa Tam Giáo dưới Cửu Trùng Ðài, hay là đệ lên Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng là Bát Quái Ðài cũng đều phải do nơi Hộ Pháp.
P.C.T.: Hiệp Thiên Ðài dưới quyền Hộ Pháp Chưởng Quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm, phần của Hộ Pháp Chưởng Quản về Pháp.
Chú giải: Vậy thì Hiệp Thiên Ðài phải dưới quyền HỘ PHÁP Chưởng Quản, cũng như Cửu Trùng Ðài dưới quyền GIÁO TÔNG và Bát Quái Ðài dưới quyền CHÍ TÔN làm chủ.
(1) Chú ý: Những chữ (Hay, Hay lắm) đó là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông.
CHI PHÁP
HỘ PHÁP là ai?
Huyền vi mầu nhiệm của Ðạo có Thiên Ðiều, cơ bí mật của Ðời có Luật Pháp. Hộ Pháp là người nắm cơ mầu nhiệm của Ðạo, nắm luật của Ðời, xử đoán Chư Chức sắc Thiên Phong và cả Tín đồ, cùng là xin ban thưởng, công thưởng tội trừng nơi thế nầy. Hễ có phàm trị mới khỏi Thiên trị, phải chiếu luật Ðạo cho toàn cả Tín đồ khỏi bị Thiên điều, giữ phẩm vị Thiêng Liêng mỗi Chức sắc ắt phải gìn giữ đạo đức của mỗi người. Người dùng hình phạt làm cho giảm tội Thiêng liêng (Hay) nắm cơ mầu nhiệm công bình mà đưa các chơn hồn vào Bát Quái Ðài hiệp cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người nắm trọn cả Luật Ðạo và Luật Ðời đặng xử đoán, làm chủ phòng xử đoán.
Dưới quyền HỘ PHÁP có 4 vị:
TIẾP PHÁP
KHAI PHÁP
HIẾN PHÁP
BẢO PHÁP
Bốn vị nầy đồng quyền cùng Hộ Pháp, khi đặng lịnh Người sai đi hành chánh song mỗi vị có mỗi phận sự riêng, quyền hành riêng là:
TIẾP PHÁP: Là người tiếp luật lệ, đơn trạng, kiện thưa, có quyền xét đoán nên phân định hay chăng, những điều nào không đáng thì chiếu theo Ðạo Luật hoặc bỏ qua, hoặc trả lại cho Cửu Trùng Ðài, còn như đáng việc phải phân định thì phải dâng lên cho Khai Pháp định đoạt.
KHAI PHÁP: Khi tiếp đặng luật lệ, đơn trạng, kiện thưa, của Cửu Trùng Ðài định xử hay là đã xử nơi Tiếp Pháp dâng lên, thì quan sát coi nên cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Ðài biết cùng chăng, như đáng việc thì tức cấp nhứt diện tư tờ cho Cửu Trùng Ðài xin đình đãi nội vụ lại bao lâu tùy ý (song chẳng đặng quá hơn 15 ngày) nhứt diện trình cho Hộ Pháp hay đặng Hộ Pháp mời nhóm Hiệp Thiên Ðài. Khi hội Hiệp Thiên Ðài thì Khai Pháp phải khai rõ nội vụ ra cho Hiệp Thiên Ðài quyết định, như quyết định phải sửa cải luật lệ hay là buộc án thì Khai Pháp phải dưng lại cho Hiến Pháp.
HIẾN PHÁP: Khi tiếp được luật lệ đơn trạng, thì phải mở đường tra vấn cho minh lẽ nên hư, phải trái, đủ chứng cớ rõ ràng, rồi dâng lên cho Bảo Pháp cho đủ nội vụ. Cấm Hiến Pháp không đặng thông công cùng Hiến Ðạo và Hiến Thế. Ấy vậy kể từ việc chi đã giao vào tay Hiến Pháp rồi thì đã ra bí mật, dầu cho Chức sắc Hiệp Thiên Ðài cũng không đặng biết tới nữa.
BẢO PHÁP: Thì gìn giữ sự bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ đoán xét và định án chiếu theo Luật Ðạo, rồi dâng lên cho Hộ Pháp đặng Người phân xử.
Bảo Pháp là người Ðầu Phòng Văn của Hộ Pháp.
P.C.T.: Lo bảo hộ luật Ðời và luật Ðạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.
Chú giải: Nói tóm lại, Hộ Pháp là người bảo hộ luật Ðời, và luật Ðạo khỏi qui phàm, nâng đỡ cho Ðời vào Thánh vị, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết, dầu toàn Cửu Trùng Ðài hay là Hiệp Thiên Ðài sái luật thì Hộ Pháp phải phân xử cho phân minh, vì vậy mà Thầy buộc cả chi "Pháp" phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.
(Trích lục Pháp Chánh Truyền trương 54 đến 56)
THƯỢNG PHẨM là ai ?
Thượng Phẩm là người thay mặt cho Hộ Pháp, phải tùng lịnh Hộ Pháp mà hành chánh, hễ bước chơn vào cửa Ðạo, thì là có Thiên phẩm, mà hễ có Thiên phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho tới Thượng Phẩm mới trọn nghĩa câu phổ độ.
Các Chơn linh dầu nguyên nhân hay hóa nhân, đều nhờ Thượng Phẩm gìn giữ, binh vực cho ngồi được an ổn địa vị mình, giúp đỡ cho đức hạnh trổi thêm cao, cho khỏi phạm luật lệ, xem sóc ngôi thứ chẳng cho giành giựt lẫn nhau, ắt giữ cho Cửu Trùng Ðài được hòa nhã êm đềm, khép cửa Thiên môn, cấm đường không cho Chơn linh thối bước (Hay). Phẩm trật nhờ Người mà đặng thăng lên hay là bị Người mà phải hạ.
Người nắm luật Ðạo nơi tay, mà binh vực cả chư Chức Sắc Thiên Phong và các Tín đồ, chẳng cho ai phạm luật, vừa lo cho người đạo hạnh lên cho tột phẩm vị của mình.
Thượng Phẩm là chủ phòng cải luật, làm Trạng Sư của Tín đồ.
P.C.T.: THƯỢNG PHẨM thì quyền về phần Ðạo, dưới quyền:
TIẾP ÐẠO
KHAI ÐẠO
HIẾN ÐẠO
BẢO ÐẠO
Lo về phần Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư Môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khắc khổ cho đặng.
Chú giải: Các Tịnh Thất đều về quyền của Thượng Phẩm cai quản. Cả Tín đồ thì về phần Người binh vực, chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng, các Chức Sắc trấn nhậm mấy Thánh Thất phải do nơi quyền Người thuyên bổ, liệu lượng tài sức mỗi người mà chỉ định phận sự (Công bình vậy).
Thượng Phẩm là cây cờ của Ðạo, hễ Ðạo nơi nào thì Thượng Phẩm nơi ấy.
Thượng Phẩm đối quyền với Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Ðài.
Hiệp Thiên Ðài là luật lệ, mà Thượng Phẩm lại là chánh trị, ấy vậy Thượng Phẩm là người của Cửu Trùng Ðài nơi Hiệp Thiên Ðài.
Bốn vị Thời Quân của Chi Ðạo, đồng quyền cùng Thượng Phẩm khi Người ban quyền hành chánh, song mỗi vị có phận sự riêng, quyền hành riêng là:
TIẾP ÐẠO: Là người tiếp cáo trạng, án tiết, thì phải quan sát trước coi có oan khúc chi chăng, đáng ra binh vực thì phải dâng lại cho Khai Ðạo.
KHAI ÐẠO: Khi đặng tờ kêu nài cầu rỗi thì liệu như đáng rỗi, phải nhứt diện tư tờ qua cho Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài xin định án bao lâu tùy ý (song chẳng đặng phép quá 15 ngày) nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu nhóm Ðại Hội Hiệp Thiên Ðài đặng liệu định, như phải đáng bào chữa thì Khai Ðạo phân giải cho ra lẽ oan ưng, Hiệp Thiên Ðài cho lịnh thì mới dâng nội vụ lên cho Hiến Ðạo.
HIẾN ÐẠO: Khi Người đặng tờ chi của Khai Ðạo dâng lên, tức cấp phải tìm biết căn nguyên cho rõ ràng, cấm không cho Hiến Ðạo thông đồng cùng Hiến Pháp và Hiến Thế.
Sự chi đã vào tay Hiến Ðạo rồi thì đã ra bí mật, dầu cho Chức sắc Hiệp Thiên Ðài cũng không đặng biết tới nữa.
Hiến Ðạo phải dâng nội vụ lên cho Bảo Ðạo.
BẢO ÐẠO: Phải gìn giữ bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ lý đoán binh vực chiếu y luật Ðạo, rồi dâng lên cho Thượng Phẩm đặng người lo phương bào chữa.
Bảo Ðạo là người làm Ðầu Phòng Văn của Thượng Phẩm.
Thượng Phẩm và tứ vị Thời Quân của chi Ðạo, phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.
(Trích lục Pháp Chánh Truyền trương 56 đến 58)
THƯỢNG SANH là ai?
Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu sanh, nhơn loại hữu sanh, tức là chúng sanh. Trong chúng sanh có nguyên sanh, hóa sanh và quỉ sanh (Nguyên sanh là gốc từ khai Thiên đã có, hóa sanh là khai Thiên rồi mới biến hóa ra, quỉ sanh là hai phẩm kia phạm Thiên Ðiều bị sa đọa).
(Tỷ như nguyên nhân là khi khai Thiên rồi, thì đã có chơn linh ấy, còn hóa nhân là chơn linh vật loại đoạt đến phẩm vị nhơn loại, còn quỉ nhân là hai chơn linh kia xu hướng ác hành mà bị đọa đày vào quỉ vị).
Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh.
Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, Thầy đem các chơn linh, dầu nguyên sanh, quỉ sanh, hay là hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn câu phổ độ.
Chơn linh các nguyên nhân bị đọa trần, quỉ nhân chuộc tội, hay là hóa nhân thăng cấp, đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (Ấy là thế độ), nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Ðạo nắm luật Thế nơi tay, mà dìu dắt cả chúng sanh vào cửa Ðạo.
Ai làm cho ngăn cản bước đường tu của thế gian thì Thượng Sanh đặng quyền kiện cùng Tòa Thánh, chư Chức Sắc phạm luật làm cho chúng sanh phải xa lánh Ðạo, thì Người có quyền xin trị tội tức thì.
Thượng Sanh làm chủ phòng cáo luật.
P.C.T.: Thượng Sanh thì lo về phần Ðời.
Chú giải: Mỗi sự chi thuộc về Ðời, thì về quyền của Thượng Sanh.
Dưới quyền Thượng Sanh có bốn vị Thời Quân là:
TIẾP THẾ
KHAI THẾ
HIẾN THẾ
BẢO THẾ
Bốn vị Thời Quân chi Thế đặng đồng quyền cùng Thượng Sanh, khi Người ban lịnh hành chánh, song mỗi vị có một phận sự riêng, quyền hành riêng là:
TIẾP THẾ: Khi đặng Thế luật hay là trạng cáo chi của ngoại Ðạo cùng là của Tín đồ mà kiện thưa trách cứ Chức Sắc Thiên Phong bất câu phẩm vị nào phải dâng lên cho Khai Thế.
KHAI THẾ: Khi tiếp được đơn trạng chi của Tiếp Thế dâng lên thì phải kiếm hiểu các nguyên do, coi có đáng buộc án cùng chăng, như đáng thì nhứt diện tư tờ qua Cửu Trùng Ðài cho biết nội vụ, nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu Người mời hội Hiệp Thiên Ðài đặng định đoạt, khi đặng lịnh của Hiệp Thiên Ðài thì Khai Thế phải dâng nội vụ lên cho Hiến Thế.
HIẾN THẾ: Khi tiếp đặng nội vụ của Khai Thế dâng qua, thì tức cấp phải đi tra xét, cho đủ chứng cớ rõ ràng, rồi dâng lên cho Bảo Thế, cấm nhặt không cho Hiến Thế thông đồng cùng Hiến Pháp và Hiến Ðạo.
Mỗi việc chi vào tay Hiến Thế rồi, thì đã ra bí mật dầu cho Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài cũng không đặng biết tới nữa.
BẢO THẾ: Phải giữ gìn sự bí mật ấy cho kín nhiệm, rồi chiếu y theo Ðạo Luật và Thế Luật mà làm tờ buộc án, kế dâng lên cho Thượng Sanh, đặng Người đến Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài hay Bát Quái Ðài mà buộc tội.
Bảo Thế là người Ðầu Phòng Văn của Thượng Sanh.
Thượng Sanh là cây cờ của Thế, tức là Ðời, ấy vậy Ðời nơi nào thì Thượng Sanh nơi đó. Người có quyền xem xét kẻ hành Ðạo, coi Thánh đức có đắc nhơn tâm cùng chăng, nhược bằng kẻ ấy Thế Ðạo, không đủ tư cách, thì người có quyền dâng sớ cầu xin thuyên bổ.
Thượng Sanh đối quyền với Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Ðài.
Hiệp Thiên Ðài là luật lệ, mà Thượng Sanh lại là chánh trị, ấy vậy là người của Cửu Trùng Ðài nơi Hiệp Thiên Ðài.
Thượng Sanh và tứ vị Thời Quân về chi Thế cũng phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.
(Trích lục Pháp Chánh Truyền trương 58 đến 60).
ÐẠO PHỤC CỦA HỘ PHÁP
Ðạo Phục của Hộ Pháp có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục, Người phải mặc giáp, đầu đội Kim khôi toàn bằng vàng, trên Kim khôi có Thể Tam Sơn, giống như cái chỉa ba ngạnh, nghĩa là: Chưởng Quản Tam Thiên bên Tây Phương Cực Lạc. Chơn đi hia, trên chót mũi hia có chữ "PHÁP", ngoài giáp thì choàng mãng bào, thế nào bên tả thì giáp, bên hữu thì mãng. Tay hữu (bên Ðạo nghĩa là bên Thượng Phẩm) cầm Giáng Ma Xử (thể lấy Ðời chế Ðạo), còn tay tả (bên Thế nghĩa là bên Thượng Sanh) nắm xâu chuổi "Từ Bi" (thể lấy Ðạo chế Ðời) thành ra nửa Ðời nửa Ðạo, ngang lưng cột dây Lịnh Sắc có ba màu Ðạo (thể Chưởng Quản Tam Giáo nơi mình) nắm trọn Thể Pháp và Bí Pháp đặng qui nhứt, cái mối dây Lịnh Sắc phải ngay chính giữa bụng.
Bộ Tiểu Phục thì toàn bằng hàng vàng (màu Ðạo), đầu đội Hỗn Ngươn Mạo màu vàng (bề cao một tấc), ngay trước trán chính giữa có thêu ba Cổ Pháp của Tam Giáo (là bình Bát Vu, cây Phất Chủ và bộ Xuân Thu) ngay trên Cổ Pháp ấy có chữ "PHÁP", lưng nịt dây Lịnh Sắc y như Ðại Phục.
Khi ngồi Tòa Tam Giáo thì mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại phục thì chỉ để khi ngự trên Ngai mình.
ÐẠO PHỤC CỦA THƯỢNG PHẨM
Ðạo Phục Thượng Phẩm cũng có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, ngoài mặc áo lá màu xanh có viền chỉ kim tuyến bạc. Ðầu để trần, chơn đi giày vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ "ÐẠO", lưng buộc dây Lịnh Sắc y như Hộ Pháp, song mối phải thả ngay bên hữu. Tay hữu cầm Long Tu Phiến (nghĩa là cây quạt kết đủ 36 lông cò trắng), trên đầu quạt ngay giữa có Phất Chủ (thể quạt đưa các Chơn hồn vào Tam Thập Lục Thiên, nghĩa là vào Thiên vị) tay tả nắm xâu chuỗi Từ Bi (thể dâng Ðạo vào cho Hộ Pháp).
Bộ Tiểu Phục cũng bằng hàng trắng, lưng cột dây Lịnh Sắc y như Ðại Phục, đầu đội Hỗn Ngươn Mạo màu trắng y như của Hộ Pháp, ngay giữa trán có thêu Long Tu Phiến, ngay trên hình Long Tu Phiến có chữ "ÐẠO".
Khi đến Tòa Tam Giáo thì mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại Phục chỉ dùng khi đến ngự trên Ngai mình.
ÐẠO PHỤC CỦA THƯỢNG SANH
Ðạo Phục của Thượng Sanh cũng có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục cũng y như Thượng Phẩm, đầu bịt Thanh Cân (nghĩa là một bao đảnh xanh), lưng mang dây Thần Thông (nghĩa là một đường lụa đỏ) và nịt dây Lịnh Sắc y như của Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song mối phải thả ngay bên tả, nơi lưng giắt Thư Hùng Kiếm (thể tạo Thế và chuyển Thế) tay hữu cầm cây Phất Chủ (thể đưa Thế vào cho Hộ Pháp), tay tả nắm xâu chuỗi Từ Bi (thể dâng Ðạo cho Nhơn sanh) chơn đi giày vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ "THẾ".
Bộ Tiểu Phục cũng y như của Thượng Phẩm, song ngay trước mão, chính giữa có thêu Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ, có chữ "THẾ", lưng cột dây Lịnh Sắc như Ðại Phục.
Khi đến Tòa Tam Giáo thì phải mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại Phục thì chỉ khi đến ngự trên Ngai mình.
ÐẠO PHỤC CỦA THẬP NHỊ THỜI QUÂN
Ðạo Phục của Thập Nhị Thời Quân có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục toàn bằng hàng trắng, cổ trịch viền chỉ kim tuyến bạc, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo cũng bằng hàng trắng, lưng nịt dây Lịnh Sắc theo Chi mình mà thả mối, chơn đi giày vô ưu màu trắng.
Bộ Tiểu Phục cũng toàn hàng trắng, lưng nịt dây Lịnh Sắc y như Ðại Phục, đầu đội Hỗn Ngươn Mạo cũng như Tiểu Phục của Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, song tùy theo Chi mình mà để Cổ Pháp, chân đi giày vô ưu màu trắng.
Khi hành chánh, thì mặc Tiểu Phục, còn Ðại Phục thì khi Ðại Lễ.
(Trích lục những trương 61, 62, 63 Pháp Chánh Truyền)
Nhưng sau khi xem khoản giải thích về Ðạo Phục, Ðức HỘ PHÁP có dạy Ngài TRẦN KHAI PHÁP như vầy:
Thêm vào Ðại Phục và Tiểu Phục hiện thời, Ðức Hộ Pháp và chư vị Thời Quân có thêm một kiểu Ðạo Phục mới nữa:
"Áo cổ bẻ, có yếm tâm ở trước ngực, tay ráp rộng 25 phân".
"Mão Tam Quan (Nhựt, Nguyệt, Tinh) tức là kiểu mão của Ðức Khổng Phu Tử trị thế ngày xưa, màu trắng, có thêu chữ kim tuyến vàng, trước mão thêu Nhựt ở giữa, Nguyệt bên hữu, Tinh bên tả. Trong vòng minh khí, mặt Nhựt có Cổ Pháp của mỗi Chi. Mỗi bên hông mão, thêu 6 ngôi sao tám góc và 6 đường linh khí ".
Ðạo Phục nầy dùng hành lễ ngày thường.
Mỗi khi có Tiểu Ðàn, Ðức Hộ Pháp mặc Ðạo Phục cũng y như trên, mà màu vàng.
Trong Pháp Chánh Truyền, Ðức CHÍ TÔN có nói: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Ðạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt".
Vì lời khuyên ấy mà Ðức LÝ GIÁO TÔNG buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài phải minh thệ giữa Hội Thánh: "Giữ dạ vô tư mà hành sự". Lại muốn tỏ ra rằng Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài thật trọng quyền, Ngài mới ban cho dây Sắc Lịnh. Khi một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài mang dây Sắc Lịnh hành sự thì mọi người đều phải trọn tuân theo, dầu phải, dầu không, không được cưỡng lại, chỉ có Hội Thánh mới có quyền định tội hay trừng phạt vị ấy mà thôi.
Dưới đây xin sao lục lời của Ngài Khai Pháp giải về quyền năng của dây Sắc Lịnh (thơ số 1421/ P.C) đáp hồi thơ số 47 ngày 23 tháng 9 Mậu Tý (dl. 25 10 1948) của Thừa Sử Nguyễn Huợt Hải, Pháp Chánh Kim Biên:
1/. Về quyền năng Thiêng Liêng: (thì người được Hiệp Thiên Ðài ban dây Sắc Lịnh) là người đại diện của Hộ Pháp, trong khi hành sự. Quyền hành y như Hộ Pháp khi thi hành mạng lịnh của Hộ Pháp, dây Sắc Lịnh là tướng diện của luật pháp, chẳng một quyền nào tương đối lại đặng, khi hành pháp, thảng như quá quyền thì người đại diện đó phải mang trọng tội là lợi dụng hay là phỉ nhục Hộ Pháp.
2/. Quyền hành hữu hình: Cả cơ quan hữu vi của Ðạo, dầu trọng, dầu khinh, đều phải cúi đầu vâng phục Người thay mặt cho Thiên Ðiều tại thế, tổng hợp cả quyền Tam Giáo nơi mình đặng thi hành luật pháp.
Vì quyền hạn của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, dầu thượng cấp, dầu hạ cấp, hễ Hộ Pháp ban cho tới đâu, hành quyền tới đó, nó không có giới hạn định chắc cao hay thấp.
Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ngoài ra Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân còn có:
Chức Sắc HÀN LÂM VIỆN, dưới quyền trực tiếp của GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP, mỗi vị Chức Sắc nầy có sở thức, sở năng chuyên môn của họ. Những Chức Sắc đó gọi là Thập Nhị Bảo Quân là:
Bảo Huyền Linh Quân
Bảo Thiên Văn Quân
Bảo Ðịa Lý Quân
Bảo Sanh Quân
Bảo Học Quân
Bảo Cô Quân
Bảo Y Quân
Bảo Văn Pháp Quân
Bảo Sĩ Quân
Bảo Nông Quân
Bảo Công Quân
Bảo Thương Quân
Về sau, nhân năm 1935, nhiều vị đạo hữu dày công cùng Ðạo, vào sổ cầu phong, Ðức LÝ GIÁO TÔNG phê: "Ðể cho Hiệp Thiên Ðài định vị", nên Ðức HỘ PHÁP cầu hỏi Ðức NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN và lập ra bảy phẩm Chức Sắc dưới nữa:
7- Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn
6- Chưởng Ấn
5- Cải Trạng
4- Giám Ðạo
3- Thừa Sử
2- Truyền Trạng
1- Sĩ Tải
Sau nữa, Ðức Hộ Pháp ban Sắc Lịnh số 34 ngày 23 tháng 5 Bính Tý (11-7-1936) mở khoa mục tuyển chọn thêm một cấp nữa là Luật Sự của Hiệp Thiên Ðài (Agent judiciaire) đặng làm tay chơn của quyền Tư Pháp.
Sắc phục của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài có một kiểu giống như nhau, có hai bộ, một bộ Ðại phục và một bộ Tiểu phục.
Bộ Ðại phục thì đội Nhựt Nguyệt Mạo, mặc áo cổ trịch, tay rộng màu trắng, chơn không mang giày, Cổ Pháp gắn hai bên hông mão, từ phẩm Sĩ Tải trở lên, còn Luật Sự gắn hai bên vai.
Một bộ Ðại phục thay vì Tiểu phục, đầu đội mão kiểu Khôi nguyên gắn Cổ Pháp ở trước trán, áo cổ bẻ, gài trước yếm tâm sáu nút, chơn không mang giày.
Ðại phục mặc khi Ðại Lễ, Tiểu phục mặc ngày thường.
Vì chánh thể chơn truyền luật pháp Ðạo thì Hiệp Thiên Ðài vi chủ (quyền hành chánh của Cửu Trùng Ðài cốt để thi hành chơn truyền luật pháp) có đủ quyền năng mạnh mẽ gìn giữ phần hồn và phần xác của Nhơn sanh theo khuôn viên luật pháp, nếu pháp luật không quyền chủ uy đủ phương thế, đủ oai nghiêm, thì chúng sanh phải chịu trong vòng áp bức của quyền Hành Chánh, nên chi Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp nhau lập luật đối phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, đặng Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đủ oai quyền bảo trọng chơn pháp của Ðức CHÍ TÔN (xem Ðạo Nghị Ðịnh số 8 HTÐ ngày 19 tháng 10 năm Mậu Dần (1938).
Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài chia ra mười phẩm:
HỘ PHÁP
THƯỢNG PHẨM, THƯỢNG SANH
Thập Nhị Thời Quân
Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn
Chưởng Ấn
Cải Trạng
Giám Ðạo
Thừa Sử
Truyền Trạng
Sĩ Tải
Sĩ Tải là hạng Luật Sự của Hiệp Thiên Ðài, hoặc thi đậu về khoa mục, hoặc bởi huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN ân tứ.
Truyền Trạng là bậc Sĩ Tải thi đậu về khoa mục, hay là do huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN ân tứ.
Thừa Sử là bậc Truyền Trạng bởi khoa mục, hay là do huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN ân tứ.
Giám Ðạo là bậc Thừa Sử bởi khoa mục, hay là do huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN ân tứ.
Cải Trạng là bậc Giám Ðạo bởi khoa mục, hay là do huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN ân tứ.
Chưởng Ấn là bậc Cải Trạng bởi khoa mục, hay là do huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN ân tứ.
Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn là bậc Chưởng Ấn bởi khoa mục, hay là do huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN mới đặng thăng vị.
Bậc Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn muốn nhập vào địa vị Thập Nhị Thời Quân thì phải độ cho đặng một nước và do huyền diệu cơ bút của CHÍ TÔN mới đặng thăng vị.
Mỗi bậc phẩm tiểu Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài phải có hai năm công nghiệp mới đặng ứng thí, hay là cầu phong thì phải đầy đủ năm năm.
QUYỀN HÀNH VÀ PHẨM TRẬT CỦA CHỨC SẮC HIỆP THIÊN ÐÀI ÐỐI PHẨM CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ÐÀI |
|||
• | Luật Sự | đối phẩm | Chánh Trị Sự |
• | Sĩ Tải | " | Lễ Sanh |
• | Truyền Trạng Thừa Sử |
" | Giáo Hữu |
• | Giám Ðạo Cải Trạng |
" | Giáo Sư |
• | Chưởng Ấn Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn |
" | Phối Sư hay là Chánh Phối Sư |
• | Thập Nhị Thời Quân | " | Ðầu Sư |
• | Thượng Phẩm, Thượng Sanh | " | Chưởng Pháp |
• | HỘ PHÁP | " | GIÁO TÔNG |
Hiện thời, vì chư vị Thời Quân chưa về đủ mặt ở Tòa Thánh hành Ðạo, thành ra phận sự của ba chi PHÁP, ÐẠO, THẾ cũng chưa thi hành được, và quyền Tư Pháp giao cho Bộ Pháp Chánh chia ra hai phần:
1/. Bộ Pháp Chánh Trung Ương.
2/. Các Ty Pháp Chánh ở mỗi địa phương Châu Ðạo.
Cách làm việc theo qui tắc "Trung ương tập quyền" nghĩa là các Ty Pháp Chánh địa phương ở mỗi Châu Ðạo giao cho một vị Luật Sự cầm quyền nắm giữ luật pháp, trực tiếp các công văn, chịu mạng lịnh ngay nơi Bộ Pháp Chánh Trung Ương.
Dưới đây là cách tổ chức và Nội Luật của Bộ Pháp Chánh lập thành ngày 15 tháng 10 năm Ðinh Hợi (27-11-1947) (khi danh từ Tòa Ðạo chưa đổi lại là Pháp Chánh) do vị KHAI PHÁP CHƠN QUÂN, Chưởng Quản Tòa Ðạo Hiệp Thiên Ðài.
Y theo luật Hội Thánh ngày 16 tháng giêng Mậu Dần (dl, 15-2-1938)
Chiếu y Pháp Chánh Truyền phân định đẳng cấp và quyền hành của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài từ HỘ PHÁP, THƯỢNG SANH, THƯỢNG PHẨM tới THẬP NHỊ THỜI QUÂN;
Chiếu y Thánh Giáo của Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ngày 16 tháng 2 năm Ất Hợi (20-3-1935) phân định đẳng cấp và quyền hành từ phẩm Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn trở xuống đến Luật Sự;
Chiếu y Ðạo Luật Hội Thánh năm Mậu Dần (15-2-1938) về cơ quan Tòa Ðạo, phân định hình phạt và án tiết cho những người phạm luật pháp của Ðạo;
Nghĩ vì Tòa Ðạo là một cơ quan để bảo thủ chơn truyền y theo khuôn viên Ðạo Pháp, không ai qua Luật Ðạo mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết;
Lập Tòa Ðạo để trị kẻ phàm, tức là dụng hình phạt phàm trần đặng giảm bớt hình phạt Thiêng liêng. Vậy Tòa Ðạo là một cơ quan trọng yếu nắm cân công bình, giữ gìn trật tự trong hàng đồng Ðạo;
Nghĩ gì hiện thời cần phải dẫn giải cho rõ thêm quyền hành và phận sự của Chức Sắc Tòa Ðạo tại Tòa Thánh và các địa phương Ðạo, nên:
ÐIỀU THỨ NHỨT
TÒA HÒA GIẢI
1). Tòa nầy lập có tính cách hòa giải đôi đàng, tiên cáo và bị cáo cho thỏa thuận, đừng tranh tụng với nhau nữa, về những vụ lặt vặt ngoài pháp luật của Ðạo, như các vụ phạm về tội nhẹ chưởi bới, hành hung, đánh đập không có thương tích, hay có thương tích nhẹ. Tòa nầy được quyền ra lịnh điều tra, phân xử và kết án nhẹ, theo bản đính theo đây. Những vụ nầy phạm về luật Ðời nên Tòa nầy chỉ có tính cách hòa giải, còn quyền xử đoán quyết định thì thuộc về Tòa Ðời, nếu phạm đến an ninh trật tự công cộng.
2). Về những tội khác phạm pháp hay phạm luật của Ðạo mà tội nhơn bị khép về Thập Hình của Ðức LÝ GIÁO TÔNG, thì Tòa Hòa Giải nầy vô thẩm quyền.
Trong trường hợp nầy nội vụ sau khi điều tra xong, phải đệ về Hội Thánh phân định.
ÐIỀU THỨ NHÌ
PHIÊN NHÓM TÒA HÒA GIẢI
Trong phiên nhóm Tòa Hòa Giải, có những nhơn viên sau đây:
• | Chủ Tọa: | Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài lãnh quyền Tòa Ðạo tại Trấn Ðạo. |
• | Nghị Án: | Hai Chức Sắc Cửu Trùng Ðài trong hàng Lễ Sanh hay là Giáo Hữu nơi địa phận sở tại. |
• | Biện Hộ: | Một Chức Sắc hoặc Chức Việc đồng phẩm với tội nhơn. |
• | Chép Án: | Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài lãnh quyền Tòa Ðạo tại Châu Ðạo hay là một Chức Việc có đủ tư cách. |
Phiên nhóm xử tại Châu Ðạo nào thì Chức Sắc hay Chức Việc nơi ấy đặng tuyển chọn bốn người làm nhơn viên dự xử.
ÐIỀU THỨ TƯ
QUYỀN ÐIỀU TRA
Phận sự điều tra và lập hồ sơ những vụ tranh tụng thì về phần của những vị Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài thay mặt Tòa Ðạo ở các Châu. Vị Chức Sắc nào đã lãnh phần điều tra thì không được quyền ngồi xử.
ÐIỀU THỨ NĂM
QUYỀN XỬ ÐOÁN
1/. Tòa Hòa Giải được quyền xử đoán những vụ tranh tụng thuộc trong hàng Chức Việc Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự cùng là Tín đồ, trong địa phận của Tòa Ðạo mỗi Trấn Ðạo.
2/. Tòa nầy cũng có quyền phân xử những vụ xảy ra giữa Ðạo hữu bên cơ quan Phước Thiện từ bậc Hành Thiện trở xuống.
Thảng như có những vụ tranh tụng giữa Tín đồ hay là Chức Việc với Chức Sắc Thiên Phong từ Lễ Sanh hay Giáo Thiện sắp lên, thì vị Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài lãnh quyền Tòa Ðạo nơi Trấn Ðạo phải tức cấp cho điều tra nội vụ rồi lập phúc trình đệ cả hồ sơ về văn phòng Tòa Ðạo Hiệp Thiên Ðài Tòa Thánh cho vị Chưởng Quản Tòa Ðạo xem xét.
3/. Vị Chưởng Quản Hiệp Thiên Ðài sẽ liệu định, hoặc giải ra Hội Công Ðồng, hoặc đệ ra Tòa Hiệp Thiên Ðài sơ thẩm hay thượng thẩm hay là Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài tùy theo mỗi vụ.
ÐIỀU THỨ SÁU
ÁN TIẾT CỦA TÒA HÒA GIẢI
Những án tiết của phiên Tòa Hòa Giải (điều thứ 1, 2, và 3) sau khi Tòa đã tuyên án rồi, mà phạm nhơn nghĩ mình bị phạt oan ức thì được phép ký tên nơi phòng Chép Án tại Châu Ðạo đặng cầu nài đệ nội vụ lên Tòa Hiệp Thiên Ðài Tòa Thánh, trong hạn lệ là mười lăm ngày kể từ ngày tiếp án.
Trong thời gian kêu nài (tục gọi là chống án) thì Tòa Hòa Giải không quyền thi hành án tiết đó.
ÐIỀU THỨ BẢY
A. THỂ LỆ RIÊNG
Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài lãnh phận sự Tòa Ðạo tại Trấn Ðạo hay tại Châu Ðạo vừa thi hành lịnh minh tra do Hội Thánh truyền dạy, vừa được phép thâu nhận đơn trạng các nơi gởi đến, và điều tra liền, rồi sẽ phúc sự sau. Chừng nào có lịnh trên phân đoán sẽ nhóm phiên Tòa xử.
Trong buổi hành sự, Chức Sắc trên đây được phép chăm nom trong địa phận Ðạo của mình, những hành vi của những Chức Sắc Hành Chánh và Phước Thiện sở tại. Nếu gặp điều gì sái luật hay bất hợp pháp theo thời cuộc thì được phép đệ tờ về Hội Thánh định liệu.
Mắng nhiếc, chưởi bới, phạm thượng, phải xin lỗi trước mặt Tòa và công chúng.
Hành hung, hăm dọa: quì hương (từ 1 tới 3 nhang).
Ðánh đập không có thương tích: quì hương (từ ba đến năm nhang).
Ðánh đập có thương tích nhẹ: chịu sở tổn thuốc men và quì hương (từ năm đến bảy nhang).
Ðánh đập có thương tích nhẹ và hư hao đồ đạt: chịu tiền thuốc men, bồi thường đồ đạt và quì hương (từ bảy đến mười nhang).
Tái phạm: bội nhị.
ÐIỀU THỨ TÁM
TÒA TAM GIÁO HIỆP THIÊN ÐÀI
Trong phiên nhóm Tòa Tam Giáo Hiệp Thiên Ðài tại Tòa Thánh, có những vị kể dưới đây:
• | Chủ Tọa: | Ðức HỘ PHÁP, hay một vị Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài thay mặt, chọn trong hàng THẬP NHỊ THỜI QUÂN của Chi PHÁP. |
• | Nghị Án: | Hai vị Chức Sắc Cửu Trùng Ðài từ bậc Giáo Sư hay là Phối Sư. |
• | Buộc Tội: | Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài trong hàng Thời Quân Chi THẾ. |
• | Biện Hộ: | Một Chức Sắc Cửu Trùng Ðài đồng phẩm với bị cáo nhân, và do bị cáo nhân lựa chọn. |
• | Cải Trạng: | Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài trong hàng Thời Quân Chi ÐẠO. |
• | Chép Án: | Một Chức Sắc tiểu cấp Hiệp Thiên Ðài. |
ÐIỀU THỨ CHÍN
QUYỀN XỬ ÐOÁN
Tòa Tam Giáo Hiệp Thiên Ðài phải nhóm tại Tòa Thánh Tây Ninh để xét đoán, phân xử những đơn kêu nài của phạm nhơn còn uất ức không vừa lòng án tiết của Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài.
ÐIỀU THỨ MƯỜI
PHÂN ÐỊNH QUYỀN XỬ ÐOÁN CỦA TÒA TAM GIÁO HIỆP THIÊN ÐÀI
Phiên Tòa Tam Giáo Hiệp Thiên Ðài cũng có phân định quyền xử đoán những vụ xảy ra:
Giữa Chức Sắc và Chức Việc với Tín đồ.
Giữa Chức Sắc với Chức Sắc các cơ quan của Ðạo.
Giữa Chức Sắc Cửu Trùng Ðài hay là Chức Sắc Phước Thiện với Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài.
Giữa nhơn viên cao cấp của các bộ ngoại pháp Chánh Trị Ðạo.
ÐIỀU THỨ MƯỜI MỘT
DANH SÁCH CÁC NHƠN VIÊN DỰ XỬ CỦA TÒA HIỆP THIÊN ÐÀI
Những danh sách của các nhơn viên ngồi xử phiên Tòa Hiệp Thiên Ðài thì phải có Sắc Huấn của Ðức Hộ Pháp đề cử do vị Chưởng Quản Tòa Ðạo Hiệp Thiên Ðài tại Tòa Thánh chuyển đệ xin phê.
ÐIỀU THỨ MƯỜI HAI
ÁN TIẾT CỦA TÒA HIỆP THIÊN ÐÀI
Những án tiết của phiên Tòa Hiệp Thiên Ðài (điều thứ tám, chín, mười) sau khi đã tuyên án rồi bị cáo nhân không còn kêu nài nữa.
ÐIỀU THỨ MƯỜI BA
QUYỀN PHÁ ÁN VÀ QUYỀN ÂN XÁ
Quyền phá án thì phần Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng và quyền của Ðức CHÍ TÔN (Bát Quái Ðài) nhứt định, ấy là về phần của cơ Thiên Trị.
Quyền ân xá là quyền của Ðức Hộ Pháp về hình luật hữu vi mà buộc người phải dâng sớ vào Tòa Ðạo Bát Quái Ðài cầu xin tha thứ về hình luật Thiên Ðiều.
Cách tổ chức của quyền Tư Pháp của Ðạo hay là Pháp Chánh rất nên đơn sơ giản dị: chỉ có các Tòa Hòa Giải ở địa phương và một Tòa Tam Giáo Hiệp Thiên Ðài.
Ngoài ra, mỗi cơ quan Chánh Trị Ðạo có kỷ luật riêng, vị nào phạm kỷ luật ấy thì giao cho cơ quan mà họ thuộc thẩm quyền xử trị họ. Ta có thể tạm gọi đó là quyền Tư Pháp Hành Chánh. Quyền nầy gồm có các Hội Công Ðồng cho tới Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài làm cơ quan, đặng xử đoán những vụ tranh tụng quyền hành giữa Ðạo hữu với Ðạo hữu, Ðạo hữu với Chức Việc, Chức Sắc hay là Chức Sắc với Chức Sắc.
Nếu ta lấy sự tổ chức Tư Pháp của Ðạo ra so sánh với Ðời, sẽ thấy về mặt Ðời nó có tánh cách phức tạp hơn.
Các Tư Pháp của Ðời có các Tòa Án làm cơ quan.
VỀ DÂN SỰ:
Tòa Án Trị An tục kêu là Tòa Tạp Tụng hay là Tòa Hòa Giải (Justice de paix).
Tòa Án Ðệ Nhứt Thẩm hay Tòa Sơ Thẩm hay Tòa Sơ (Tribunal de première instance).
Tòa Án Phúc Thẩm kêu là Tòa Áo Ðỏ (Cour d'Appel).
Tòa Thượng Thẩm kêu là Tòa Phá Án (Cour de Cassation).
VỀ HÌNH SỰ:
Tòa Sơ Thẩm hay Tòa Trừng Trị hay Tiểu Hình (Cour correctionnelle).
Tòa Ðại Hình (Cour d'Assise).
Tòa Phá Án (Cour de Cassation).
Ngoài ra các vụ thuộc dân sự và hình sự còn có các vụ thuộc thương sự, công sự, hành chánh, quân sự v.v... do các Ty Tư Pháp thương sự, công sự, hành chánh, quân sự ... xử đoán.
SƠ LƯỢC CÁCH TỔ CHỨC TÒA ÁN DÂN SỰ
Tòa Án Trị An: Chỉ có một Quan Tòa mà thôi, gọi là Quan Tòa Trị An (Juge de paix) không có Trưởng Tòa giữ trật tự và truyền rao giấy tờ. Việc nầy là về phần Hương Chức làng (Hương Hào).
Tòa Án Trị An rộng quyền: (Justice de paix à compétence étendue) Quyền hạn gần như Tòa Án Ðệ Nhứt Thẩm, song cách tổ chức có khác là Tòa Án Trị An rộng quyền có một Quan Tòa, một Quan Lục Sự và một Trưởng Tòa. Còn Tòa Ðệ Nhứt Thẩm thì có:
Quan Chánh Tòa (Juge Président).
Quan Tòa Trợ Thẩm (Juge suppléant) để thay thế Quan Chánh Tòa khi vắng mặt và làm Quan Bồi Thẩm (Juge d'Instruction).
Quan Biện Lý (Procureur de la République) để bảo vệ pháp luật, trong phiên xử về hình sự thì đứng buộc tội bị cáo nhơn. Trong các Tòa lớn, có Quan Phó Biện Lý giúp việc.
Quan Lục Sự (Greffier) có chức trách coi việc giấy má, bảo tồn công văn. Thường có các viên Phó Lục Sự giúp việc (Commis Greffiers). Quan Lục Sự dự phiên xử mặc áo tràng đen, đội mũ đen không có khoanh bạc.
Tòa Phúc Thẩm: (Cour d'Appel) gồm có các viên chức sau đây:
Một Chánh Viện Trưởng (Premier Président).
Hai vị Ban Trưởng (Président des chambres) chủ tọa hai ban trong Tòa Phúc Thẩm. Ban thứ nhứt (Première chambre) xử việc Hộ của người Pháp và tiểu hình của người Pháp và người Việt Nam. Ban thứ nhì (2e Chambre) xử việc hộ cho người bổn xứ.
Các Thẩm Phán Quan (Conseillers).
Trong phiên nhóm xử các Tòa Phúc Thẩm thì có:
Một Chánh Thẩm Phán (Président) tức là Ban Trưởng.
Hai vị Thẩm Phán (Conseillers).
Một Chưởng Lý hay Phó Chưởng Lý (Procureur général) hay (Substitut du procureur général) hay Tổng Hộ Biện (Avocat général).
Một Lục Sự (Greffier).
Các Thẩm Phán Quan mặc áo đen, đội mũ nhung khoanh vàng.
Khi nào phải xét về việc tố cáo Thẩm Quan (Prise à partie), hay là một việc do Tòa Thượng Thẩm phá án rồi mà phải tái thẩm, thì phiên nhóm ấy gọi là phiên Ðại Hội (Audience solennelle) thì các Quan Tòa mặc áo đỏ.
Tòa Thượng Thẩm: (Cour de Cassation) tức là Tòa Phá Án chỉ có phận sự xem xét coi các Tòa dưới xử có đúng theo pháp luật hay không mà thôi.
CHƯỞNG LÝ
Về các Chưởng Lý ở các Tòa Án Dân Sự (Magistrats du Ministère public), ở các Tòa Phúc Thẩm hay Tòa Ðại Hình, thì về phần các Quan Tổng Chưởng Lý (Procureur général), Tổng Hộ Biện (Avocats généraux), hay Phó Chưởng Lý (Substitut du procureur général). Còn ở các Tòa Án Ðệ Nhứt Thẩm hay Tòa Tiểu Hình thì về phần các Quan Biện Lý (Procureur de la République), hay Phó Biện Lý (Substitut du Procureur de la République).
PHẬN SỰ CỦA CÁC QUAN CHƯỞNG LÝ
Bảo vệ pháp luật, giữ cho các Quan Tòa, Quan Trạng Sư và mọi người tuân theo pháp luật.
Buộc tội bị cáo nhơn ở các phiên Tòa về hình sự.
Thỉnh cầu các việc nào nên thỉnh cầu, bênh vực quyền lợi cho trẻ con vị thành niên, đàn bà có chồng, người mất công quyền ở các phiên Tòa Dân sự.
Có quyền xét xử, như xử truất quyền người cha, hay cải chánh giấy khai sanh, khai tử, hôn thú.
Có quyền Giám Ðốc các Quan Tòa Trị An, các Trạng Sư, Trưởng Tòa, Chưởng Khế (Notaire), Thừa Phát Lại (Commissaire priseur).
Các Quan Chưởng Lý thường kêu là Quan Tòa đứng (Magistrats debout) vì mỗi khi nói đều đứng dậy (chỉ ngồi lúc Tòa tuyên án), đối với các Quan Tòa ngồi xử gọi là Quan Tòa ngồi (Magistrats assis).
HÌNH ÁN CỦA PHÁP CHÁNH HIỆP THIÊN ÐÀI
LUẬT: Những vị nào phạm luật pháp thì chiếu theo Thập Hình của Ðức LÝ GIÁO TÔNG mà định tội.
Kẻ phạm phải chịu dưới hai quyền lực:
Luật: Là Tân Luật, Bát Ðạo Nghị Ðịnh và Luật Lệ Hội Thánh.
Pháp: Là Pháp Chánh Truyền và Thánh Giáo của Ðức CHÍ TÔN.
(Chương thứ tư, điều thứ mười lăm về Tòa Ðạo trong Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938).
Thập Hình của Ðức LÝ GIÁO TÔNG chia ra có năm khoản phạm pháp và mười khoản phạm luật.
Ðệ Nhứt Hình: | |
Ðịnh Án: Trục xuất. |
|
Ðệ Nhị Hình: | |
Chư Chức Sắc Thiên Phong không tùng mạng lịnh của Hội Thánh:
Ðịnh Án: Giáng cấp tới Tín Ðồ hay buộc hành Ðạo ngoại quốc. |
|
Ðệ Tam Hình: | |
Ðịnh Án: Giáng cấp từ phẩm đương quyền xuống đến hai hay là một cấp. |
|
Ðệ Tứ Hình: | |
Ðịnh Án: Ngưng quyền từ ba đến năm năm. |
|
Ðệ Ngũ Hình: | |
Ðịnh Án: Ngưng quyền từ một đến ba năm, và phạt vào Tịnh Thất. |
Ðệ Nhứt Hình: | |
Ðịnh Án: Trục xuất. |
|
Ðệ Nhị Hình: | |
Ðịnh Án: Giáng cấp tới Tín Ðồ hay buộc hành Ðạo ngoại quốc. |
|
Ðệ Tam Hình: | |
Ðịnh Án: Giáng cấp từ phẩm đương quyền xuống hai hay là một cấp. |
|
Ðệ Tứ Hình: | |
Ðịnh Án: Ngưng quyền từ ba đến năm năm. |
|
Ðệ Ngũ Hình: | |
Ðịnh Án: Ngưng quyền từ một đến ba năm. |
|
Ðệ Lục Hình: | |
Ðịnh Án: Phạt vào Tịnh Thất từ một tháng đến một năm mà vẫn còn Hành Chánh như thường. |
|
Ðệ Thất Hình: | |
Ðịnh Án: Thuyên bổ đi nơi khác chỗ mình đang hành Ðạo. |
|
Ðệ Bát Hình: | |
Ðịnh Án: Triệu hồi về Tòa Thánh gần Giáo Tông và Hộ Pháp cầu học Ðạo. |
|
Ðệ Cửu Hình: | |
Ðịnh Án: Ăn năn sám hối thọ tội cùng chúng sanh. |
|
Ðệ Thập Hình: | |
Ðịnh Án: Hầu kẻ đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học Ðạo. |
|
Ðịnh Án: Tùy tội nặng nhẹ, Tòa Ðạo chiếu theo Thập Hình trừng trị thêm. |
|
|
QUYỀN GIÁM SÁT VÀ QUYỀN BÃI MIỄN
CỦA PHÁP CHÁNH
Chiếu theo Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938) thì Pháp Chánh là cơ quan bảo thủ chơn truyền, y theo khuôn viên Ðạo Pháp, bảo đảm sanh chúng, gìn cân công lý cho toàn cả chúng sanh được sống một cách thung dung thơ thới dưới mặt luật công bình của Ðạo.
Pháp Chánh binh vực những người bị uất ức, trừng phạt những người phạm luật pháp, gìn giữ quyền hành phân minh đẳng cấp trật tự cho nền Chánh Trị Ðạo.
Ngoài phận sự bảo vệ luật pháp như Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, hay rõ hơn chư vị cầm quyền Pháp Chánh còn có phận sự chăm nom cả hành vi của toàn thể Ðạo trong phạm vi hành sự của mình, thị chứng các cuộc nhóm họp của cơ quan Hành Chánh và Phước Thiện.
Quyền nầy giống như quyền giám sát trong Ngũ quyền Hiến Pháp của Tôn Dật Tiên nước Tàu.
Về Chánh Trị Ðời, trong chánh thể dân chủ, Nghị hội dân chúng có quyền bãi miễn các viên chức của chánh phủ, nếu họ không vừa lòng hành vi của các vị nầy.
Trong Chánh Trị Ðạo thường thấy quyền bãi miễn nầy thuộc Bộ Pháp Chánh, tức là thuộc cơ quan của quyền Tư Pháp, chiếu theo Thập Hình của Ðức LÝ GIÁO TÔNG.
Trong các trường hợp điều tra, khi một vị Chức Sắc phạm tội, Bộ Pháp Chánh có quyền tạm bãi miễn, tức là tạm thâu quyền và chức của vị ấy, để đưa bị cáo nhân ra Tòa Pháp Chánh điều tra hay thẩm phán, sau khi ấy, nếu trắng án vô tội sẽ được phục quyền chức như cũ.
Cơ Quan Phước Thiện đã định rõ rệt ở chương thứ nhứt rồi, không phải bày giải thêm nữa ở mục nầy. Nó là một cơ quan thuộc Hiệp Thiên Ðài và dưới quyền điều khiển đặc biệt của Ðức HỘ PHÁP.
Hàng phẩm của Chức Sắc Phước Thiện chiếu theo Thập Nhị Ðẳng Cấp Thiêng Liêng như dưới đây:
Minh Ðức
Tân Dân
Thính Thiện
Hành Thiện
Giáo Thiện
Chí Thiện
Ðạo Nhơn
Chơn Nhơn
Hiền Nhơn
Thánh Nhơn
Tiên Tử
Phật Tử
Bất luận Nam hay Nữ, ai muốn gia nhập vào cơ quan Phước Thiện, phải lập Tờ Hiến Thân trọn đời làm công quả cho cơ sở Phước Thiện.
Những người ngoại giáo, hay chư vị Ðạo nhơn các nền Tôn Giáo khác muốn nhập vào cửa Ðạo thì HỘI THÁNH sẽ do công nghiệp Phước Thiện của họ mà định vị tùy theo công nghiệp lớn nhỏ đặng định phẩm từ bậc Minh Ðức tới Chơn Nhơn mà thôi.
Còn bậc Hiền Nhơn trở lên thì giúp Hội Thánh giữ gìn chơn pháp, nên các phẩm vị nầy phải do huyền diệu cơ bút của CHÍ TÔN sở định.
Người mới gia nhập Phước Thiện, khởi đầu làm công quả được 6 tháng thì vào hàng Minh Ðức.
Những Chức Sắc hay Chức Việc đương quyền Hành Chánh mà muốn hiến thân vào Phước Thiện thì phải có giấy chứng nhận theo đẳng cấp của cơ quan mình mới đặng. Còn hạng Tín đồ phải có tờ kiết chứng tánh hạnh của Bàn Trị Sự.
Chiếu theo Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938), chương thứ hai về Phước Thiện thì bất luận người nào mới gia nhập vào cơ quan Phước Thiện đều phải làm công quả theo hàng Minh Ðức, dầu cho vị ấy là Chức Sắc cao cấp bên cơ quan Hành Chánh cũng vậy. Nhưng Ðinh Hợi vừa rồi, Ðức Hộ Pháp có ra Thánh Lịnh số 531 đề ngày 13 tháng 10 Ðinh Hợi (26-10-1947) cho Chức Sắc hai bên Hành Chánh và Phước Thiện được đối phẩm cùng nhau:
Lễ Sanh | đối với | Giáo Thiện |
Giáo Hữu | đối với | Chí Thiện |
Giáo Sư | đối với | Ðạo Nhơn Chơn Nhơn |
Hễ một vị Lễ Sanh được bổ qua Phước Thiện thì đương nhiên được kể là Giáo Thiện và phải mặc Sắc phục của Phước Thiện, dầu tạm bổ hay thuyên bổ thiệt thọ cũng vậy.
Về phần Chức Sắc Phước Thiện bổ qua Cửu Trùng Ðài cũng mặc Thiên Phục theo hàng phẩm đối hàm.
1. Chức Sắc Phước Thiện chịu dưới quyền công nhận của Ðại Hội Phước Thiện là một hội duy nhứt mà đặng thăng thưởng hay bị buộc tội. Hội nầy theo tính cách Nhứt Viện Chế như trong Chánh Trị Ðời, Quốc Hội duy nhứt của chế độ Ðại Nghị Pháp.
Sự phân quyền vẫn tương đối như ba Hội Quyền Vạn Linh vậy.
2. Bực Minh Ðức muốn lên Tân Dân, bực Tân Dân muốn lên Thính Thiện, bực Thính Thiện muốn lên Hành Thiện phải có ba năm công nghiệp đầy đủ với chức trách, có tờ kiết chứng công nghiệp, tánh đức tốt, phải trường trai và có tư cách xứng đáng.
3. Bực Hành Thiện muốn lên Giáo Thiện thì ngoài điều ba năm công nghiệp còn phải nuôi đủ mười hai gia tộc.
4. Mỗi đẳng cấp phải đủ ba năm công nghiệp mới được qua đẳng cấp khác. Ngoại trừ ra những vị nào có đại công, có đủ bằng cớ và được công chúng hoan nghinh, hoặc những vị bị khổ hạnh, hay tù tội ngục hình vì Ðạo, mới được vào sổ cầu phong ngoài luật đã định.
5. Về Hàm Phong và Truy Phong cũng theo các điều kiện như ân phong vậy.
Ngoài sự công nhận của Ðại Hội Phước Thiện, quyền phong thưởng hay buộc tội Chức Sắc Phước Thiện thuộc về quyền đặc biệt của Ðức HỘ PHÁP.
SẮC PHỤC CỦA CHỨC SẮC PHƯỚC THIỆN
Chiếu theo Ðạo Nghị Ðịnh số 48/PT. Ngày 13 tháng mười Mậu Dần (10/12/1938) thì Chức Sắc Phước Thiện mặc Ðạo Phục thường (nghĩa là khăn đen áo dài trắng) những ngày Ðại lễ thì mặc áo tràng trắng choàng ngang vai một dây Sắc Lịnh bỏ mối qua tay mặt (Thể Ðạo), trên dây Sắc Lịnh có gắn biểu hiệu theo hàng phẩm.
• | Thính Thiện Hành Thiện Giáo Thiện |
![]() |
mang dây Sắc Lịnh phái NGỌC |
• | Chí Thiện Ðạo Nhơn Chơn Nhơn |
![]() |
mang dây Sắc Lịnh phái THƯỢNG |
• | Hiền Nhơn Thánh Nhơn Tiên Tử |
![]() |
mang dây Sắc Lịnh phái THÁI |
• | Phật Tử | Ðạo Phục của Phật Tử sẽ do huyền diệu của Ðức CHÍ TÔN định sau. |
Ðại Hội Phước Thiện gồm có những vị sau đây :
Nghị Viên.
Phái Viên.
Cả Chức Sắc từ phẩm Giáo Thiện trở lên.
Nghị Viên có hai hạng:
Cả Chủ Sở Lương Ðiền Công Nghệ thuộc hàng Hành Thiện trong mỗi Tộc Ðạo xúm nhau công cử một người thay mặt.
Cả Chức Việc Bàn Cai Quản Sở Phước Thiện chánh trong Tộc Ðạo xúm nhau công cử một vị thay mặt.
Phái Viên là Ðại Biểu của các hạng Minh Ðức, Tân Dân, Thính Thiện tức là các hạng mới nhập vào cơ sở Phước Thiện đặng học thiện, theo thiện và nghe thiện, từ một đến năm trăm người hiến thân thì công cử một vị, từ năm trăm lẻ một đến một ngàn người thì công cử hai vị y theo thể lệ chọn cử Phái Viên của Quyền Vạn Linh.
Nghị Viên và Phái Viên trong mỗi Tộc Ðạo gọi là Ban Ủy Viên.
Ðiều kiện căn bản bắt buộc chư Nghị Viên và Phái Viên là phải trường trai và có tánh đức tốt, xứng đáng Ðại Biểu cho Phước Thiện.
Cuộc chọn cử Ban Ủy Viên tại mỗi Tộc Ðạo phải có vị Giáo Thiện Ðầu Tộc Ðạo (1) làm Chủ Tọa. Vị Chủ Tọa ban cho mỗi vị đắc cử một tờ kiết chứng đặng trình ghi khi về tới Tòa Thánh.
Ban Ủy Viên phải có mặt tại Tòa Thánh năm ngày trước ngày khai mạc Ðại Hội.
(1) Khâm Châu, Ðầu Tộc sau đổi lại Quản Châu, Quản Tộc.
Mỗi Hương Ðạo phải khai mở nhiều sở Lương Ðiền, Công Nghệ, Thương Mãi. Mỗi sở có một vị Chủ Sở vào hàng Hành Thiện cai quản và chịu dưới quyền điều khiển của sở Phước Thiện chánh.
Mỗi Tộc Ðạo có một sở Phước Thiện chánh, làm nơi hội hiệp đặng thương lượng các công việc làm ăn thuộc Phước Thiện, gồm có các cơ quan:
Bảo Sanh Viện
Y Viện
Ấu Trỉ Viện
Dưỡng Lão Ðường
Học Viện .v.v...
Sở Phước Thiện chánh nầy đảm nhiệm do một Bàn Cai Quản có 12 người Chức Việc, chia ra các phận sự sau đây:
Một vị Chủ Trưởng làm Chủ Tọa các Hội nhóm.
Một vị Phó Chủ Trưởng giúp Chủ Trưởng lập chương trình các Hội nhóm, thay thế cho vị Chủ Trưởng vắng mặt.
Một vị Thủ Bổn lãnh phận sự bút toán, giữ sổ sách thâu xuất, chịu trách nhiệm về công quỹ Phước Thiện sở tại và sẵn sàng trình bày mỗi khi Bàn Cai Quản muốn xem xét. Mỗi phiếu xuất điều có chữ ký tên của Chủ Trưởng hay của vị Phó Chủ Trưởng thế quyền khi vị trên vắng mặt.
Thủ Bổn giữ:
Một sổ thâu xuất.
Một cuốn sổ ghi công quả.
Một cuốn sổ biên tài sản.
Một cuốn sổ cấp tế những người cô quả, bệnh hoạn, đói khó, già cả, tật nguyền, cô độc, góa bụa và quan, hôn, tang, tế.
Trong mỗi kỳ nhóm lệ, Thủ Bổn phải lược thuật sự quản xuất tài chánh cho rõ ràng.
Một vị Phó Thủ Bổn giúp việc Thủ Bổn phần giấy tờ sổ sách và thay thế khi vị nầy vắng mặt.
Một vị Từ Hàn lãnh phần lập vi bằng các kỳ Hội nhóm, giữ sổ sách công văn của nhà sở chánh.
Một vị Phó Từ Hàn giúp việc cho Từ Hàn.
Sáu vị Nghị Viên, trong đó cử ra hai vị kiểm soát, nhiệm kỳ một năm, đặng xem xét các sổ sách của Thủ Bổn và Từ Hàn, tờ lược thuật tài chánh của Thủ Bổn mỗi kỳ nhóm lệ, phải có chữ ký tên của hai vị kiểm soát viên mới đủ phép. Hai vị kiểm soát viên được tự quyền lập tờ phúc gởi về cho Hội Thánh tường hiểu.
Còn bốn vị Nghị Viên kia thì lo tra xét tin tức quan hệ tới quyền lợi của cơ sở Phước Thiện, giúp Chủ Trưởng giữ trật tự các kỳ Hội nhóm.
Bàn Cai Quản sở chánh Phước Thiện gồm có các Chức Việc trọn hiến thân vào Phước Thiện, chỉ trừ chức Chủ Trưởng phải chọn trong hàng Chủ Sở Lương Ðiền, Công Nghệ. Cuộc công cử nầy có mặt Khâm Châu, Ðầu Tộc Ðạo Phước Thiện Chủ Tọa và một vị Sĩ Tải hay Luật Sự chứng kiến và ký nhận vào vi bằng.
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
CHƯƠNG THỨ NĂM
SO SÁNH CHÁNH TRỊ ÐỜI VÀ CHÁNH TRỊ ÐẠO
Ðể tiện việc tham khảo phần trên đây được thêm vào. Nguyên bản chánh không có.
Từ xưa tới nay, khắp Thế Giới, chủ quyền Quốc Gia chia ra hai quyền nắm giữ:
Vua
Dân
Do đó nảy sinh ra hai Chánh Thể: Quân Chủ và Dân Chủ.
Trong Chánh Thể Quân Chủ, Vua là trượng trương cho chủ quyền Quốc Gia. Mọi trị quyền như quyền Lập Pháp, quyền Hành Pháp và Quyền Tư Pháp, điều thu trong tay của một người, người ấy là Vua.
Ngày trước, Chánh Thể Quân Chủ có hai hình thức: độc tài và chuyên chế, ngày nay không còn nữa. Phần nhiều các nước trên Thế Giới đã đổi lại theo thể chế Dân Chủ hay Quân Chủ Lập Hiến hầu hết cả.
Ðộc tài (Despotisme) là không bị một pháp luật nào hạn chế cả, Vua có đủ quyền sanh sát, mọi luật pháp điều do ý muốn của Vua. Vua được toàn quyền hành động tự do ở trên và ngoài luật pháp.
Chánh Thể Quân Chủ Lập Hiến (Monarchie constitutionnelle) là phương pháp dung hòa quyền hành của Vua và quyền lợi của nhơn dân. Người tượng trưng cho chủ quyền vẫn là nhà Vua, song quyền của Vua chia một phần cho dân, tức là Quân Dân cộng trị vậy. Quyền hành của Vua và quyền lợi của dân đều do Hiến Pháp qui định rõ rệt.
Quân Chủ Lập Hiến là một bước dài tiến bộ của Chánh Thể Quân Chủ, Quân Chủ chuyên chế, và trong Chánh Thể nầy quyền Dân được thi thố theo phạm vi của nó. Dân có quyền thỉnh nguyện và đề nghị lên nhà Vua những ước vọng chánh đáng của mình, và trái lại Vua cũng phải tôn trọng quyền lợi của nhơn dân. Cho nên Hiến Pháp là một bản cam kết giữa Vua và Dân để duy trì quyền lợi của nhau.
Ðể thực hiện quyền tham chánh của mình, nhân dân bầu cử Ðại Biểu lập thành nghị hội để chế định luập pháp đúng theo dân ước, dân nguyện.
Vua là tượng trưng độc nhứt của quốc gia, Vua đứng đầu quyền Hành Chánh, Vua dùng uy tín của mình để ban hành Luật Pháp cho nhơn dân. Lập Pháp lập thành do dân nguyện, thì sự thi hành luật pháp tức nhiên vừa với dân nguyện, đi sát với quyền lợi của dân sanh.
Nhà Vua trong Chánh Thể nầy vẫn được truyền tử lưu tôn và bất khả xâm phạm. Muốn giữ được mãi tính cách quý trọng đới với lòng tôn Vương của dân chúng mà không phản lại quyền lợi của dân chúng, ngày nay có thuyết Quân Chủ vô trách nhiệm.
Lẽ thường có quyền hành nắm trong tay, tức nhiên có trách nhiệm lớn lao, khi làm không tròn tất bị bãi bỏ.
Mà muốn lúc nào cũng như lúc nào, vẫn tôn kính nhà Vua thì không thể để cho nhà Vua có trách nhiệm được. Không có trách nhiệm tức không có thực quyền.
Vậy ngôi vị nhà Vua chỉ có danh mà không có quyền, không có trách nhiệm, thì được yên vị mãi mãi. Ðịa vị Vua nước Quân Chủ Lập Hiến giống như Tổng Thống nước Dân Chủ Cộng Hòa.
Ðể gánh trách nhiệm thay Vua, đã có Thủ Tướng và Nội Các. Thủ Tướng và các vị Tổng Trưởng (tức nhơn viên của Nội Các) cầm quyền điều khiển mọi việc trong nước, chịu trách nhiệm trước Nghị Hội, khi không tròn nhiệm vụ tất bị Nghị Hội bãi miễn ngay.
Mục đích của thuyết Quân Chủ vô trách nhiệm là để tránh sự độc tài của nhà Vua, vừa để cho dân có thể thay thế, chọn lựa người xứng đáng, thi hành chánh sách ích nước lợi dân, hạp ý dân.
Hiện thời, về chánh thể Quân Chủ Lập Hiến, có hai nước đáng chú ý: ANH và NHỰT.
Chế độ Quân Chủ Lập Hiến nước Anh gọi là chế độ Ðại Nghị. Người tượng trưng cho chủ quyền quồc gia là nhà Vua, mà người chịu trách nhiệm trước nghị hội là THỦ TƯỚNG. Thủ Tướng do Vua bổ nhiệm. Thủ Tướng chọn lựa các Tổng Trưởng và Thứ Trưởng đặng lập Nội Các cai trị toàn quốc. Quyền Tư Pháp do các Tòa Án thi thố.
Quan hệ nhứt là quyền Lập Pháp, dưới có Quốc Hội làm cơ quan, trên có Viện Quí Tộc (Chambre des Lords) kềm chế bớt tánh cách giục thúc của Quốc Hội.
Nhà Vua giao trọn quyền Hành Chánh cho Nội Các do vị Thủ Trưởng làm đầu. Vua chỉ giữ quyền phê chuẩn và quyền phủ quyết các đạo luật đã được Quốc Hội đề nghị. Vua được quyền giải tán Quốc Hội.
Quyền lợi của quốc dân nước Anh được bảo đảm do các bản cam ước từ xưa đến nay giữa Vua và Dân lập thành văn kiện.
Nhà Vua ở nước Nhựt khác nhà Vua ở nước Anh, vì Vua NHỰT mệnh danh là THIÊN HOÀNG, là Ðấng Thần Linh, chí tôn, chí trọng của dân, Vua Nhựt cầm quyền tối cao binh bị trong nước. Trong lúc loạn lạc chiến tranh, Vua Nhựt được quyền đình chiến, khai chiến, giảng hòa với các nước. Quyền của nhà Vua Nhựt không bị quyền của Lập Pháp chi phối và Vua có quyền bãi bỏ hoặc bổ nhiệm các Tổng Trưởng mà các Bộ Trưởng khi nhận chức không bị bắt buộc phải trình với Quốc Hội ưng thuận. Các Tổng Trưởng chịu trách nhiệm trước nhà Vua, không phải trước Nghị Hội.
Nước Nhựt được mau tiến bộ trên đường duy tân theo kịp các nước liệt cường cũng nhờ ở uy tín và quyền hành rộng rãi, có khi cũng độc tôn.
Các nước nhược tiểu ngày nay vừa tỉnh giấc mê, biết áp dụng chế độ cai trị như Nhựt chẳng mấy chốc mà tiến tới rực rỡ trên đài vinh quang.
Trong chánh thể nầy, chủ quyền thống trị toàn quốc thuộc về nhân dân. Nhân dân là tất cả mọi người trong nước không phân biệt nam nữ, địa vị, giai cấp, già trẻ. Nhân dân là những đơn vị kết hợp thành khối quốc gia, cho nên nhân dân được quyền tham dự việc chánh, đặng vận dụng chủ quyền.
Mặc dù chủ quyền thuộc toàn dân, nhưng trong nước phải có một người tượng trưng quyền hành tối cao để chỉ huy và tổ chức việc cai trị. Trong nước Quân Chủ, người ấy là Vua; trong nước Dân Chủ, người ấy là Tổng Thống, do dân chúng bầu. Tổng Thống khác với Vua, bởi Vua được truyền tử lưu tôn, còn Tổng Thống do dân bầu cử lên cầm quyền trong một thời hạn nhứt định lâu hay mau tùy theo mỗi nước. Nước Dân Chủ có Tổng Thống gọi là Dân Chủ Cộng Hòa (République démocratique).
Lại nữa, nhân dân là tất cả mọi người trong nước, không phải một lúc đều ra tham chính cả, cho nên cần phải tổ chức có qui củ.
Trong các quyền duy có quyền Lập Pháp là dân chúng tham dự dễ dàng và tiện lợi nhứt. Dân chúng bầu cử Ðại Biểu lập Nghị Hội, ủy nhiệm cho Nghị Hội quyền chế định Luật Pháp cho vừa với dân lợi, dân sanh. Vị Tổng Thống dùng quyền tối cao của nước, ban bố các luật pháp do nghị hội lập thành. Tổng Thống là đại diện cho quốc gia.
Quyền của Tổng Thống có khi phụ thuộc quyền Lập Pháp. Như ở nước PHÁP, vị Tổng Thống do Quốc Hội bầu cử lên, nên quyền Lập Pháp là tượng trưng cho chủ quyền tối cao mà quyền Hành Chánh là phụ thuộc để thi hành luật pháp, cho nên quyền của Tổng Thống phải phụ thuộc quyền Nghị Hội.
Vị Tổng Thống nầy vô trách nhiệm, và chế độ nầy gọi là chế độ Ðại Nghị Pháp.
Còn ở Mỹ, Tổng Thống do dân trực tiếp bầu cử lên, cho nên hai quyền Hành Chánh và Lập Pháp ngang nhau, tức là quyền của Tổng Thống không hề bị phụ thuộc quyền Nghị Hội mà nhiều khi quyền của vị Tổng Thống nầy còn rộng rãi hơn nhiều. Chế độ nầy gọi là chế độ Tổng Thống.
Về việc Lập Pháp, các nước dân chủ hiện giờ, có nơi còn giữ hai viện (Lưỡng Viện Chế), có nơi sáp nhập Thượng, Hạ Nghị Viện làm một (Nhứt Viện Chế). Như ở Pháp hiện thời, nhập Thượng Nghị Viện (Sénat) và Hạ Nghị Viện (Chambre des Députés) làm một gọi là Quốc Dân Ðại Hội (Parlement). Nhưng ở trên thêm một Viện Cộng Hòa (Conseil de la République) là cơ quan thuộc Chánh Phủ để binh vực các dự án của Chánh Phủ.
Trên đây là nói về các trị quyền: Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, còn nếu phân tách tỉ mỉ ra, dân chúng ở dưới Chánh Thể Dân Chủ còn có những quyền như dưới đây:
Quyền tuyển cử, tức là quyền ứng cử và bầu cử Nghị Viên Quốc Hội, bằng cách phổ thông đầu phiếu.
Quyền bãi miễn là bãi bỏ và làm tội các quan lại.
Quyền sáng chế, tức là sáng kiến và đề nghị Luật Pháp.
Quyền phúc quyết nghĩa là quyền quyết định lại những luật lệ nào trái với công ích, công lợi.
Nhiều khi thêm quyền phủ quyết là quyền phản đối, không nhìn nhận một luật lệ nào đó còn hiệu lực nữa.
Ngoài các chánh quyền, nhân dân còn được hưởng mọi tự do dân chủ như: tự do thân thể, tự do cư trú, tự do hội họp, tự do tư tưởng, tự do tín giáo, tự do lễ bái, tư do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do kết xã, v.v...
Các quốc gia ngày nay, phần nhiều chánh thể Dân Chủ thường xu hướng các chủ nghĩa xã hội, tư bản, vô sản v.v... rồi lại nảy sanh nhiều chánh sách độc tài, đảng trị.
Chủ nghĩa nào cũng có cái hay, mà chủ nghĩa nào cũng có cái dở. Song điều quan hệ là chủ nghĩa hay chánh sách nào không phản lại quyền lợi của đại chúng thì được khối dân ủng hộ.
Chánh Trị Ðạo là phương dung hòa tinh túy cả thể chế chánh trị đại đồng, thích hợp với quyền lợi của nhơn sanh khắp toàn cầu thế giới.
Nói rằng Chánh Trị Ðạo xu hướng Quân Chủ, thì đó, phẩm vị GIÁO TÔNG là vị GIÁO CHỦ trên các vị GIÁO CHỦ, vị HOÀNG ÐẾ trên các vị HOÀNG ÐẾ, chẳng khác nào một ông Vua ngồi trên một Triều Chánh oai nghi, mà một ông Vua được tuyển chọn từ khối dân đi lên theo từ đẳng cấp cho đến cùng tột, một ông Vua không có quyền truyền tử lưu tôn, mà chỉ truyền hiền. Ông Vua đó đắc vị do một cuộc tổng tuyển cử toàn cầu (Élection Universelle) mà ứng cử là chư vị Chưởng Pháp và Ðầu Sư. Ngoại trừ trường hợp do cơ bút của Ðức CHÍ TÔN lựa chọn, phẩm vị GIÁO TÔNG phải được lựa chọn y theo PHÁP CHÁNH TRUYỀN của Ðạo.
Ông Vua Ðạo không được độc tài hay chuyên chế, vì Ông không chế định luật pháp, dưới Ông còn có phẩm Ðầu Sư có quyền xin lập, và chế giảm luật lệ, và có phẩm CHƯỞNG PHÁP, kiểm soát hành tàng. Luật Pháp nào không có đủ ba ấn CHƯỞNG PHÁP, không có giá trị ban hành. Cầm quyền cai trị có Ðầu Sư, mà hành chánh là Chánh Phối Sư.
Trong chánh thể trị Ðạo, quyền dân được đặc biệt tôn trọng. Coi như Hội Nhơn Sanh, trên có hai hội: Hội Thánh và Thượng Hội hiệp lại làm cơ quan của quyền Lập Pháp, tức quyền Vạn Linh. Nguyện ước của nhơn sanh, sau khi được ba Hội thảo luận và đồng ý kiến chấp thuận, được dâng lên quyền CHÍ TÔN phê chuẩn thành luật ban hành. Khác với chánh thể Dân Chủ, là dân chúng chẳng những chỉ có quyền bầu cử Nghị Hội và Tổng Thống mà thôi, mà ở đây nhơn sanh ngoài quyền bầu cử Nghị Viên và Phái Viên đại diện cho mình ở Hội Nhơn Sanh, còn có quyền chọn lựa các quan Ðạo từ trong khối dân rồi tuần tự chấp thuận đề nghị thăng thưởng từ đẳng cấp theo điều kiện định trước, cho đến cuối cùng có cuộc tổng công cử GIÁO TÔNG.
Nhơn sanh được quyền bầu cử, chọn lựa kẻ cầm quyền Hành Chánh từ trong Hương Xã trở lên. Trước nhứt các phẩm Chức Việc Bàn Trị Sự từ Ấp Ðạo đến Hương Ðạo, đều do nhơn sanh ứng cử và bầu cử. Chế độ nầy giống Dân Chủ Xã Hội.
Chánh Trị Ðạo giống Chánh Thể Quân Chủ Lập Hiến, bởi luật lệ lập thành do nguyện ước của Nhơn Sanh, nhưng đó chỉ là những luật lệ thường, đặng thi hành Pháp Chánh Truyền, tức là một bản cang tánh Hiến Pháp bất di bất dịch do huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN truyền dạy.
Chánh Trị Ðạo giống Chánh Trị Tư Bản và không cấm đoán sự tự do tư sản, tôn trọng quyền lợi của mọi người, ủng hộ trí thức, duy trì trường quan lại, nhưng cũng giống Chánh Trị Vô Sản, bằng cớ là trong cửa Ðạo có cơ quan Phước Thiện. Những người hiến thân vào Phước Thiện, hiến cả tư sản gia nghiệp cho Ðạo, rồi vào đó tùy sự bổ dụng của cơ quan ấy, làm ra bao nhiêu lợi tức để vào của chung.
Ðói có Phước Thiện cho ăn, rách có Phước Thiện cho mặc, ốm đau có Phước Thiện cho thuốc, nói tóm lại Phước Thiện lãnh bảo đảm tất cả về phần sanh sống vật chất.
Trong Chánh Trị Ðạo tuy rằng tôn trọng dân quyền một cách đặc biệt, không phải là không độc tài.
Trong buổi loạn Ðạo mà GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP phản khắc nhau, không thể gì nắm vững nền Chánh Trị Ðạo cho khỏi xáo trộn, hoặc vì tà quyền lẩn lộn, thì GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP ủy nhiệm cho ÐẦU SƯ cầm quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo, nghĩa là nắm cả chánh trị và luật lệ trong tay, tự do sử dụng, tùy nghi thế nào để dẹp yên mối loạn. Khi đó GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP cũng phải cúi đầu vâng mạng lịnh của quyền thống nhứt. Khi hết loạn thì ÐẦU SƯ phải giao quyền thống nhứt lại cho GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP.
Quyền độc tài của Ðầu Sư không phải là tuyệt đối, bởi theo Pháp Chánh Truyền của Ðạo có ba vị Ðầu Sư. Tuy vân, vị Thượng Ðầu Sư có quyền hơn hai vị kia và là người chánh thức cầm quyền thống nhứt, song lúc nào cũng phải có sự đồng ý kiến của hai vị kia mới thi hành được. Quyền độc tài bị hạn chế ở chỗ đó.
Tóm tắt lại Chánh Trị Ðạo không đặc biệt giống một chánh thể trị Ðời nào hết, mà trong Chánh Trị Ðạo hầu như gom góp cả cái hay của toàn cầu, dung hợp cùng nhau làm thành chánh thể thích hợp với cả mọi người, trong đó quyền dân được thi hành tùy sự tấn triển của dân trí, và quyền Vua được tôn trọng, tùy sự bảo tồn của nhơn phong, ta có thể tạm gọi chánh thể trị Ðạo là chánh thể Quân Chủ Dân Quyền vậy.
CHUNG
Số: 30/BKD/TT
Ban Kiểm Duyệt Kinh sách HỘI THÁNH
Kiểm Duyệt, ngày 29 tháng 01 Giáp Dần
(dl 20-02-1974)
) )( __)_(__ __(_____)__ (((_________))) ) ׀ ( |
A. NỀN TẢNG CHÁNH TRỊ CỦA ÐẠO HIỆP THIÊN ÐÀI CỬU TRÙNG ÐÀI B. NGUYÊN TẮC CAI TRỊ CỦA ÐẠO CHƯƠNG THỨ HAI QUYỀN LẬP PHÁP: QUYỀN VẠN LINH CÁCH TỔ CHỨC BA HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH HỘI NHƠN SANH HIẾN PHÁP CỦA ÐẠO (Pháp Chánh Truyền) CHƯƠNG THỨ BA Tổ chức Hành Chánh của Ðạo CHƯƠNG THỨ TƯ Quyền Tư Pháp SỰ TỔ CHỨC CỦA QUYỀN TƯ PHÁP HIỆP THIÊN ÐÀI CƠ QUAN PHƯỚC THIỆN CHƯƠNG THỨ NĂM CHÁNH TRỊ ÐỜI CHÁNH TRỊ ÐẠO |
|
|||||
Tài liệu kính biếu. |