ÐẠO SỬ

 

  ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH

 

ÐẠO SỬ

Quyển I:
ÐẠO SỬ XÂY BÀN Năm Ất Sửu (1925)
   Quyển II:
Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929)

 

Hội Thánh Giữ Bản Quyền

Biên Soạn: NỮ ÐẦU SƯ HƯƠNG HIẾU

Do Thánh Thất Tộc Ðạo Westminter,
Tiểu Bang California Hoa Kỳ ấn hành năm Ất Hợi (1995)
In tại MEKONG PRINTING 2421 W. First Street * Santa Ana CA 92703 USA

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

Nữ Đầu Sư Nguyễn Hương Hiếu

 

 

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

 

 

ÐẠO SỬ

Quyển I
ÐẠO SỬ XÂY BÀN
Năm Ất Sửu (1925)

 

 

 


 

Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp Tại Ðền Thánh đêm 17-8-Quí Tỵ (24-09-1953): Vía của Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

 

Rút bài Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp
Tại Ðền Thánh đêm 17-8-Quí Tỵ (1953)

Ðêm nay là ngày Vía của Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Ðức Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Ðức Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển linh quyền năng vô đối, Bần Ðạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới khai Ðạo, thật ra Bần Ðạo không có đức tin gì hết, không có tin đến nước Ðại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần Ðạo năm Ất Sửu dạy cả mấy Anh lớn ngày nay là Chức Sắc của Ðạo, đi đến mọi nhà, thật ra Ðức Chí Tôn đến thăm đến viếng mọi con cái của Ngài. Bần Ðạo không đức tin gì hết, nghe nói Tiên giáng đi theo nghe chơi, làm cho Ðại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho bài thi ai nấy cũng tốt, duy có bài thi của Bần Ðạo rất dị hợm như vầy:

Thi

Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.

Ðại Từ Phụ còn thêm hai chữ "nghe con" cho đến bảy tháng xuống ở Thủ Ðức, năm thiên hạ bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là tại Thủ Ðức, lắm bịnh nhơn quá chừng, Ðức Chí Tôn bảo xuống ở Thủ Ðức cứu bịnh cho họ trong bảy tháng, xuống ở Thánh Thất của Ðạo, nhờ Ðức Lý giảng dạy với ngòi bút, trọn bảy tháng trường mới biết Ðạo. Có cái hay hơn hết là những điều gì Ngài dạy trong Cơ Bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần Ðạo.

Bần Ðạo làm chứng một Ðấng mà Ðức Chí Tôn đã lựa làm Anh Cả của chúng ta linh hiển lạ lùng, không cần lập đi lập lại, đối với Chức Sắc tất nhiên cả Thánh Thể của Ðức Chí Tôn, Bần Ðạo cốt yếu nói với toàn con cái của Ngài nam nữ lưỡng phái phải định tâm và kiên cố đức tin của mình. Các việc Ðức Chí Tôn tiên tri, Bần Ðạo vừa nói từ từ, nói đủ hết, Bần Ðạo thú thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Ðạo hôm nay được khối đức tin mạnh mẽ to tát. Nếu không có nhờ Anh Cả vô biên linh hiển ấy chắc là phận sự yếu trọng của Bần Ðạo hôm nay chỉ mơ hồ, đức tin yếu ớt, thiếu đức tin, thiếu cương quyết, thiếu tâm Ðạo vững chắc.

Bần Ðạo tưởng, nếu ba điều ấy thiếu thì nền chơn giáo không được nên hình như thế nầy. Cả thảy con cái Ðức Chí Tôn đều biết không có nền chơn giáo nào chỉ có hai mươi mấy năm mà đặng bành trướng, danh thể của nó cao trọng truyền bá một cách mau chóng, như nền Ðạo Cao Ðài của Ðức Chí Tôn.

Hôm nay Bần Ðạo chứng chắc quả nhiên như vậy, cái năng lực của Ðạo hôm nay được như thế là nhờ Ðức Lý Ðại Tiên cầm quyền thiêng liêng vô đối, nhờ Anh Cả của ta là Ðức Lý Giáo Tông điều khiển quyền năng vô hình của Ngài.

Bần Ðạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng lực bành trướng như thế này. Có một điều Bần Ðạo dặn trước, những kẻ tưởng Ngài vô hình coi chừng Ngài, những kẻ thiếu đức tin dám khi rẻ quyền linh của Ðạo, oai quyền của Ngài, coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm nhằm Thiên Ðiều, Bần Ðạo dám quả quyết khó tránh nơi tay của Ngài.

Các con cái Ðức Chí Tôn coi Ngài rất công bình. Ngài dạy: Phải lập công, lập đức, lập ngôn, tức nhiên là "Tam Lập". Ngài rất công bình, rất oai quyền. Thiên vị chúng (?) nhờ Ngài bảo vệ, không thế gì sơ sót.

Ðức Chí Tôn coi Ngài cũng như một Tướng Soái, oai quyền của Ngài lớn lắm. Ở nơi Ngọc Hư Cung quyền của Ngài yếu trọng vĩ đại to tát lắm.

Cả con cái của Ngài cũng nên tin nơi Ngài, mong mỏi nơi Ngài để cả ước vọng và đức tin nơi Ngài.

Bần Ðạo xin khuyên một điều: Lớn nhỏ phải yên tâm giữ Ðạo, đừng sơ sót nhứt là đừng có ỷ công khi lịnh, coi chừng Ngài, Ngài trừng trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Ðạo đã thấy, hai mươi mấy năm lập Ðạo cùng Ngài, Bần Ðạo quả quyết như vậy.

Chúng ta hãy để trọn đức tin nơi Ngài một Ðấng công chánh oai quyền, nhưng rất yêu ái. Chúng ta được Ngài bảo vệ cho thật là một sự an ủi vĩ đại trong kiếp sanh của chúng ta đó vậy.

 Phụ ghi: (?) Chúng tôi nghĩ, do kỹ thuật ấn loát, hoặc đánh máy,
đã thiếu mất một chữ nơi đây. Chữ đó có thể là (ta)?

 


 

LỜI PHI LỘ

Cây có cội, nước có nguồn, Ðại Ðạo khai sáng có nguyên lý, số là dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thế kỷ làm nô lệ cho Ngoại bang như: Tàu, Pháp, nhưng việc gì cũng có giới hạn nên từ năm 1954 sau khi dân tộc Việt đứng dậy chống Pháp, làm cho quân Pháp rút ra khỏi xứ, trả đất lại cho ta làm chủ, trả quyền tự do ăn ở, đi lại, cho ta phục hưng trong đó có tự do tín ngưỡng là trọng hệ.

ÐẠI ÐAO TAM KỲ PHỔ ÐỘ khai sáng tại Việt Nam từ năm1926, người bổn Ðạo lúc ấy còn bị quyền Ðời bó buộc. Mãi tới năm 1956 Hội Thánh ký thỏa ước với Chánh Phủ Cộng Hòa ước hẹn không làm chính trị và được trọn quyền truyền bá mối Ðạo khắp xứ Việt Nam.

Sự lý Ðức Chí Tôn không giao cho tay phàm chấp chưởng quyền bỉnh là vì tay phàm hay để thất kỳ truyền và hiện nay chính Ðức Chí Tôn làm Giáo Chủ dùng huyền diệu Cơ Bút phổ truyền Chánh pháp và Luật lệ. Buổi sơ khởi, Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu chịu nhiều nhọc nhằn và dụng nhiều phương pháp thâu nhận những người hữu căn ra công giúp Ðạo. Trong dịp nầy Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu được đại hạnh hầu nhiều Ðàn Cơ, thọ nhiều Thánh giáo, biết nhiều tế nhuyển nên Bà chịu khó viết bổn Ðạo Sử để lưu truyền ư hậu thế. Xem quyển Ðạo Sử của Bà, đọc giả dường như trải qua một giấc huỳnh lương mộng, tưởng mình như có mặt tại chỗ hồi mở Ðạo bắt nguồn từ Sài Gòn lên Gò Kén rồi tới trung tâm điểm Tây Ninh, không sót một chi tiết nào để giúp ích cho người khảo cứu làm tài liệu.

Công phu của Bà Chánh Phối Sư rất nhiều, thế hệ đương kim chỉ có công đọc mà hiểu biết phần nào mầu nhiệm của Ðạo, nếu không đọc thật uổng.

Nay lời,

Tòa Thánh, ngày 29 tháng 11 năm Ðinh Mùi (30-12-1967)

Bảo Thế Hiệp Thiên Ðài
(Ấn ký)
LÊ THIỆN PHƯỚC

 


 

GIỚI THIỆU

Một cuốn Sử Ðạo, muốn cho có giá trị và có tính cách khách quan, tả đúng sự thật, thì cần có sự cộng tác của người cố cựu rõ hết các việc từ đầu chí cuối, như Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu chẳng hạn, vì Bà luôn luôn có mặt tại các nơi Xây Bàn lúc đầu và các Ðàn Cơ về sau, nên mỗi việc gì xảy ra hoặc mỗi bài Thánh giáo do Cơ Bút giáng dạy, Bà đều ghi chép lưu lại mà Bà đã thuộc lòng một phần lớn.

Nay vì tuổi cao, sợ không đủ thì giờ để giúp Sử liệu cho Ðạo, nên Bà cho xuất bản cuốn ÐẠO SỬ XÂY BÀN nầy để lưu lại cho hậu thế. Âu cũng là điều đáng mừng cho tiền đồ Quốc Ðạo vậy.

Thay vì đề tựa, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng chư quý đọc giả cuốn Lược Sử nầy do một nữ lão thành biên soạn, đúng sự thật một trăm phần trăm, đáng được lưu trử đời đời, để làm tài liệu cho sự khảo cứu có đầy đủ chi tiết ngọn nguồn, có thể giúp ích một phần lớn cho các nhà soạn sử sau này.

Nay kính,

Hiến Pháp H.T.Ð.
(Ấn ký)
TRƯƠNG HỮU ÐỨC

 


 

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ

Ðạo Sử Xây Bàn

LỜI XÁC NHẬN

Ðạo Cao Ðài ra đời hơn 42 năm nay, phần đông Chức Sắc đều biết rõ là lúc ban sơ Ðức Chí Tôn dùng huyền diệu Cơ Bút thâu phục các Chức Sắc thượng cấp Hiệp Thiên Ðài dùng những vị này trong việc phò loan để lập thành Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Trước thời kỳ Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài được lịnh dùng Ðại Ngọc Cơ trong việc truyền giáo thì chỉ là một giai đoạn chơi giải trí của ba vị, cùng nhau kết bạn đồng tâm để vui thú cầm thi trong khi nhàn rỗi.

Cuộc chơi giải trí đó là việc "Xây Bàn" và ba vị nói trên chính là: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, và Cao Hoài Sang (sau được đắc phong là Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh).

Vốn là nhà Thi sĩ và chất chứa nơi tâm nỗi căm hờn vì nước nhà bị đô hộ, ba vị nầy mượn thú Xây Bàn, mời vong linh những người quá vãng để cầu hỏi về vận mạng tương lai của tổ quốc hoặc làm thi, xướng họa chơi cho tiêu khiển.

Lúc sơ khởi thì cũng gặp nhiều khó khăn, vì trong đêm đầu, ba vị đốt nhang khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9 giờ tối đến 2 giờ khuya mà không có kết quả chi hết. Cố tâm nhẫn nại ba vị ngồi thêm đêm thứ nhì (nhằm ngày 26.7.1925) thì đúng 12 giờ khuya có một vong linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi Ðường luật 8 câu.

Ðó là bài thi Tự Thuật của cụ CAO QUỲNH TUÂN thân sinh ông CAO QUỲNH CƯ.

Sự cảm động và ngạc nhiên của ba vị đến thế nào quyển Ðạo Sử nầy đã nói rõ.

Cách mấy đêm sau, vong linh cô ÐOÀN NGỌC QUẾ nhập bàn cho bài thi Tự Thán; thiệt là lời châu ngọc; điệu thi văn nghe qua ngậm ngùi xúc cảm. (ÐOÀN NGỌC QUẾ là giả danh của cô VƯƠNG THỊ LỄ, tức là Tiên Cô Thất Nương DIÊU TRÌ CUNG).

Thấy sự hiển linh và huyền diệu trong sự tiếp xúc với người cõi vô hình, ba ông tích cực say mê việc Xây Bàn, đêm nào cũng họp nhau, ngồi cho tới ba hoặc bốn giờ sáng mới nghỉ.

Từ đó đến sau thì các vị Tiên, Thánh thường nhập bàn, khi thì cho Thi phú hoặc giải nghĩa Thi văn, khi thì xác luận về vận mạng nước nhà, đánh trúng chỗ yếu điểm của tâm hồn ba ông khiến cho ba ông đều ngây ngất trong niềm vui sướng.

Tiếp được bài thi nào hay thì khi dứt cuộc xây bàn, ba ông nán lại: hai ông rao đờn, một ông ngâm thi rồi cùng nhau mượn chung rượu đầy vơi trong lúc tàn canh để gợi hứng niềm hoài cảm.

Cái đêm mà ba ông ngậm ngùi và xúc động hơn hết là đêm 10-11-1925, Ðức Tả Quân LÊ VĂN DUYỆT nhập bàn cho bài thi như sau:

Ðã ghe phen phấn khởi can qua,
Thuộc địa trách ai nhượng nghiệp nhà.
Trăm họ than van nòi bộc lại,
Ba kỳ uất ức phép tây tà.
Xa thơ biến gảy rời vương thất,
Nam đảnh hầu thay sáng quốc gia.
Ách nước nạn dân gần muốn mãn,
Hết hồi áp chế tới khi hòa.

Cách mấy hôm sau, Ðức Tả Quân LÊ CÔNG cũng nhập bàn cho tiếp bài thi thứ nhì:

Khi hòa tùy có chí đồng thinh,
Vận nước nên hư cũng bởi mình.
Tôi giặc lắm người xô võ trụ,
Lòng trung mấy kẻ xót sanh linh.
Ðường dài chớ nệ ngàn công gắng,
Bước nhọc đừng nao một dạ thình.
Ðồ sộ giang san xưa phủi sạch,
Trông vào tua vẹn nỗi đinh ninh.

Ông Cao Hoài Sang bạch với Ðức Ngài: "Trong tình thế hiện tại, các nhóm Cần Vương đất Việt có nên họp nhau đứng dậy làm cách mạng để thoát ách nô lệ chăng?"

Ðức Ngài trả lời bằng bài thi:

Mạnh yếu đôi đàng đã hiển nhiên,
Ðôi mươi năm nữa nước nhà yên.
Dằn lòng ẩn nhẫn xem thời thế,
Ðừng vội gây nên cuộc đảo huyền.

(Ba bài thi nầy không có biên trong cuốn "Ðạo Sử Xây Bàn" nên tôi soạn chép ra đây).

Nhờ chơi Xây Bàn mà ba ông Cư, Tắc, Sang học hỏi Ðạo Lý, trau giồi trí thức cho tới ngày Ðức A.Á. chính là Ðức Chí Tôn dạy ba ông vọng Thiên Bàn ngoài sân, quì giữa Trời mà cầu Ðạo (nhằm ngày mùng 1 tháng 11 Ất Sửu, dl. 16.12.1925).

Ðó là ba vị Ðệ Tử mà Ðức Chí Tôn thâu nhập môn trước nhứt trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ (Tây Ninh).

Sau đó Ðức Chí Tôn thâu phục chư vị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài, vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và các vị Ðại Thiên Phong Cửu Trùng Ðài.

Do lịnh Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế ba vị Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh hiệp với chư vị Bảo Văn Pháp Quân, Bảo Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp, Tiếp Pháp chia nhau đi khắp các Tỉnh Nam phần để phò loan, thâu người cầu Ðạo nhập môn.

Cuốn "Ðạo Sử Xây Bàn" do Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu dày công biên soạn, rất đầy đủ và đúng sự thật, từ lúc ba vị Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh khởi sự Xây Bàn cho đến khi được lịnh dùng Cơ Bút cho Ðức Chí Tôn lập thành nền Ðại Ðạo.

Ðó là một kho tài liệu quí báu vô giá, phô bày rõ ràng nguồn cội khai sáng Ðạo Trời tại nước Việt Nam mà mỗi Chức Sắc và Tín Hữu cần nên đọc qua để nhận xét.

Tòa Thánh, ngày 22 tháng 12 Ðinh Mùi (Dl. 21.01.1968)

Thượng Sanh
(Ấn ký)
CAO HOÀI SANG

 


 

 

Q.1-01. Sơ giải sự tích xây bàn

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tam Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH

SƠ GIẢI SỰ TÍCH XÂY BÀN

Nhận xét muôn việc chi chi cũng có Thiên Thơ định giờ nên các chơn linh mới dám tình nguyện lãnh lịnh hạ thế cứu đời lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ân xá kỳ ba nầy.

Thời Kỳ Gặp Ðạo

Năm Ðức CAO THƯỢNG PHẨM 37 tuổi (1925) nhằm thời kỳ Ðức Thượng Ðế mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ dùng huyền diệu bố trí cho 3 ông là Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh ham mộ xây bàn mỗi đêm, đêm nào 3 ông cũng họp lại với nhau để xây chiếc bàn lên; ba ông thành tâm khẩn cầu hơi lâu thì quả thật hiển linh, có các Ðấng giáng Ðàn cho văn thi và nhiều bài Thánh giáo triết lý cao siêu nhiệm mầu; cũng nhờ phép linh có các Ðấng mà 3 ông đêm nào cũng thích xây bàn cầu các Ðấng học hỏi Thiên Cơ.

Bởi vì có cuộc xây bàn mới mở được đường xuất Thánh cho nhơn sanh hưởng hồng ân của Chí Tôn trở về cựu vị. xây bàn là làm cho dễ dàng sự giao thông, người dưới thế mà được gần gũi cùng các Ðấng vô hình, học hỏi nhiều sự huyền phép Thiêng Liêng ban cho, 3 ông mới mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ năm Bính Dần (1926).

Xây bàn là vô cùng hiển linh. Gây cảm tình cùng 3 ông: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, các Ðấng đến lập phương thế thông công cõi vô hình hiệp với hữu hình đặng mở cơ tận độ 92 ức nguyên nhân đang trầm luân nơi khổ hải nầy.

Ngày 15 tháng 10 năm Ðinh Dậu (1958)

Biên soạn

Nữ Chánh Phối Sư
(Ấn ký)
HƯƠNG HIẾU

 


 

Q.1-02. Tiểu sử xây bàn

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Tứ Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH

TIỂU SỬ

Thượng tuần tháng 6 năm Ất Sửu (1925) ông CAO QUỲNH CƯ đến nhà ông CAO HOÀI SANG thăm chơi, để cùng ông Cao Hoài Sang và ông PHẠM CÔNG TẮC hàn huyên tình đời thế sự, vì ông Phạm Công Tắc cũng ở gần nhà ông Cao Hoài Sang bên cạnh chợ Thái Bình dãy phố hàng Dừa Sài Gòn.

Hết hồi đàm đạo với chén trà câu thơ, giờ càng khuya, ông Cao Quỳnh Cư dường như có Thần linh thúc giục hay vì linh tánh kích động mới nghĩ ra việc xây bàn tiếp xúc với các vong linh khuất mặt, thì hai ông Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang cũng đồng tình hưởng ứng.

Ba ông mới đem ra trước hiên một cái bàn vuông bốn chân (1) rồi cả ba đồng để tay lên bàn; chưa mấy phút thì cái bàn rung chuyển liền một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng, dường như hăm hở lắm vậy.

Tiếp đó bàn bắt đầu nhịp chơn gõ chữ. bàn gõ một tiếng các ông đọc A, hai tiếng đọc B, cứ như vậy đến khi bàn ngưng lại tại chữ gì thì lấy chữ đó, và cứ như vậy ráp vần thành ra chữ và thành câu có ý nghĩa.

Ðêm ấy có nhiều vong linh nhập bàn viết tiếng Anh, Pháp và Hoa, cũng có vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng Việt Nam.

Buổi xây bàn đêm ấy là lần đầu tiên, có lẽ là có chư vong muốn nhập và tranh nhau nói chuyện nên làm xáo trộn, cái bàn gõ khi chững chàng, khi lựng khựng, làm cho ba ông càng ngạc nhiên lại thêm chán nản nhứt là ông Cao Quỳnh Cư nghi rằng có hồn ma hay ngạ quỉ vô phá phách, liền đó ông đề nghị không tiếp nhận các vong linh đó và đồng cùng hai ông ngưng việc xây bàn.

Qua đêm sau, nhằm ngày 6 tháng 6 Ất Sửu (26-07-1925) ba ông lại tiếp tục xây bàn nữa, vì tánh ba ông cũng hiếu kỳ muốn hiểu rõ hiện tượng kỳ lạ này coi tại sao cái bàn linh động nhanh nhẹ và viết thành chữ nhiều thứ tiếng, và có ý nghĩa nữa.

Ðêm nay ba ông không gặp trở ngại nào mà lại tiếp đặng một bài thi bát cú, tự thuật:

Thi

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đôi lúc trêu hồn phách, (2)
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Ký tên: Cao Quỳnh Tuân (Thiên Ðình)

Cao Quỳnh Tuân chính là phụ thân của ông Cao Quỳnh Cư, ly trần hơn 25 năm về trước.

Ðọc tới câu thứ bảy ông Cao Quỳnh Cư quá mủi lòng cảm động, lúc nầy hai ông Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang cũng bùi ngùi; ông Cao Quỳnh Cư vội thốt: Thưa Thầy(3), ngày mai con nấu một mâm cơm cúng, con kính thỉnh Thầy về chứng lòng thảo của con. Vong linh nhập bàn, liền chuyển cái bàn, ngỏ ý khứng lời mời của con và kế đó vong xuất.

Sau khi tiếp đặng bài thơ Ðường luật, vừa cao sâu vừa thâm thúy vì quá hiển hích đúng với lời của một từ phụ nhắn nhủ lại cùng con, tinh thần trí não của ba ông càng thêm bấn loạn, vừa ngạc nhiên, vừa cảm phục văn chương và ý nghĩa bài thơ.

Qua đêm mùng 10 tháng 06 Ất Sửu (30-07-1925), nghĩa là bốn đêm sau, ba ông cũng họp lại tại nhà ông Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn nữa, kỳ này cái bàn lay chuyển một cách khoan thai, dịu dàng đoán chừng như bóng dáng của một vị Tiên Nga hạ trần, thì ra lời đoán không sai vì đó là vong linh một Nữ linh giáng Ðàn cho thi.

Thi

Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?

Ký tên: Ðoàn Ngọc Quế

Cũng trong đêm nầy chúng tôi hỏi cô Ðoàn Ngọc Quế đau bệnh chi mà thác, cô cho hai bài thi tiếp theo:

Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm Ðình.

***

Người thời Ngọc mã với Kim đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.

Ba ông họa bài thi bát cú của Ðoàn Ngọc Quế dưới đây:

Họa vận

Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai,
Trời xanh vội lấp nữ anh tài.
Tình thâm một gánh còn dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.
Ðể thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.
Hềm gì chưa rõ đầu đuôi thế,
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai.

Phạm Công Tắc

***

Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ người quốc sắc đấng thiên tài.
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các,
Xót bạn tri âm cõi dạ đài.
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước,
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng,
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.

Cao Quỳnh Cư

***

Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai,
Nông nổi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương đài.
Những ngờ duyên thắm trao phòng Bích,
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai.
Một dải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.

Cao Hoài Sang

Ông Cư hỏi: Ðoàn Ngọc Quế hồi còn tại thế xứ ở đâu?

Ðáp: ... ... Ở Chợ Lớn.

Hỏi: ... ... Cô học ở đâu?

Ðáp: ... ... Học ở trường Ðầm.

Bữa sau ông mời ông Phạm Công Tắc và ông Cao Hoài Sang ra nhà ông xây bàn (xây ghế) đặng mời Ðoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Ba ông cứ hỏi cô Ðoàn Ngọc Quế những việc Thượng giới thì cô cũng khứng giải cho hiểu việc Thiên cơ chút ít, nhờ cô Ðoàn dùng huyền diệu độ ba ông và bố trí cho ba ông ham việc Thiên cơ hơn trần thế.

Ban ngày làm việc, ba ông trông mau tối để thỉnh bàn ra trước hàng ba, tắt đèn điện phía trước đặng cầu hỏi Cô Ðoàn những việc cõi trên, và mỗi đêm mỗi cầu cô về giải nghĩa mấy bài thi. Khi thì cô giáng, có bữa các Ðấng giáng. (Xin xem tới mấy trang sau, có bài thi của quí cô và các Ðấng cho, mà có giải nghĩa và dạy nhiều điển tích rất cao siêu nhiệm mầu).

Ðoàn Ngọc Quế gọi ông Cư là Anh Cả, ông Phạm Công Tắc là Nhị Ca, ông Cao Hoài Sang là Tam Ca, cô để cô là em thứ tư (Tứ Muội).

Ý tứ bài thơ của cô Ðoàn Ngọc Quế lạ thường hay lắm thật là tuyệt bút.

Nhớ lại hồi hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925), ba ông thỉnh bàn ra (lúc này hơi in như say Ðạo) tính xây bàn cầu cô Ðoàn về dạy văn thi, ba ông để tay thì dở bàn lên bổng có một ông giáng, tôi hỏi tên gì, thật rất lạ ... ... xưng là A.Ă. gõ làm một bài thi dưới đây:

Thi

(Chí Tôn đến xưng là A.A.Â)

Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.

Ông Phạm Công Tắc nghe dứt câu liền nói với ông Cư rằng: - Thôi anh, ai đâu mà nói tiếng gì khó nghe quá, sao lại không có tên xưng là A.Ă.Â.

Ông Cư nói với ông Phạm Công Tắc: - Ậy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em.

Ông Cư hỏi: - Ông A.Ă. mấy chục tuổi?

Ông A.Ă. gõ bàn, đếm hoài không ngưng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Liền đó ông Cư ngưng lại không dám hỏi nữa, và kiếm hiểu ông nầy ở trển chắc lớn lắm.

Từ đó về sau có vị nào giáng cho thi thì ông cầu ông A.Ă. xin giải nghĩa.

Lối cuối tháng 7 năm Ất Sửu (1925) ba ông hỏi cô Ðoàn Ngọc Quế rằng: Em còn có chị em nào nữa biết làm thi em mời giùm, nói ba anh em qua có lòng ngưỡng mộ học làm thi, xin cầu khẩn quý cô đến dạy ba anh em qua làm thi. Cô Ðoàn Ngọc Quế trả lời: Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, với Nhứt Nương làm thi hay lắm.

Ba ông rất mừng, nên tính mời quý cô ngày Rằm Trung Thu, vì là ngày tiết trăng thanh gió mát, ngày ai cũng thích đi ngoạn cảnh ngắm trăng (chưng cộ đèn).

 

(1) Cái bàn này hiện nay vẫn còn giữ kỷ niệm tại Thảo Xá Hiền Cung, hiện giờ là Thánh Thất tại Tỉnh lỵ Tây Ninh.

(2) Trong quyển Ðại Ðạo Truy Nguyên của cụ Huệ Chương ghi là:
"Bên màn đòi lúc trêu hồn phách".

(3) Ông Cao Quỳnh Cư vốn quen gọi cha bằng Thầy.

 

Cái bàn kỷ niệm mà ba ông Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh dùng để XÂY BÀN

 


 

Q.1-03. Tích Hội Yến Diêu Trì: Rằm tháng 8 năm Ất Sửu (dl. 01-09-1925).

 

TÍCH HỘI YẾN DIÊU TRÌ

Cô Ðoàn Ngọc Quế dạy ba ông rằng: Ba anh muốn cầu thì ngày đó ba anh phải ăn chay, cầu mới được (ba ông vâng lệnh cô Ðoàn ngày cầu ba ông ăn chay).

Ngày qua tháng lại tới ngày Rằm tháng 8 năm Ất Sửu (Le 1er Septembre 1925). Ngày Rằm lập bàn hương án chưng những hoa thơm trầm trọn ngày (nhà không tiếp khách nào hết, nhà ở đường Bourdais 134 Sàigòn, nay là đường Calmette).

Ba ông vọng bàn cầu khẩn thắp hương thơm từ 10 giờ đêm tới giờ Tý, xông trầm hương thành tâm cầu quý cô lối năm phút thì có bốn cô giáng cho một bài thơ dưới đây:

Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu. (1)
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.

Lục Nương

( Mối ăn hết ba bài thi).

Ít bữa sau ba ông cầu ông A.Ă. giải nghĩa câu thi của Lục Nương câu thứ năm và câu thứ sáu:

Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.

A.Ă.Â: Trường quang ánh sáng mặt trời.

Kim Mã, Ngọc Thố:

Kim Mã: Ngựa vàng là mặt trời. Ngọc Thố: Thỏ ngọc là mặt trăng.

Thi văn lựa hai thú ấy mà chỉ mặt trời và mặt trăng, vì hai thú ấy chạy mau, con này rượt con kia, hết ngày tới đêm, hết đêm tới ngày, chỉ là ngày giờ qua mau rất lẹ.

Thi văn cũng dùng Kim Mã quá song, chỉ ngày giờ qua rất mau lẹ.

 

Phụ ghi: (1) Trong quyển Ðại Ðạo Truy Nguyên:
Mờ mệt vườn đào điểm sắc thu.

 


 

Q.1-04. Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp, ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Sửu (dl. 06-10-1949): Lễ Hội Yến Diêu Trì Kim Mẫu.

 

Rút bài Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp
Tại Ðền Thánh, ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Sửu
Do Kỷ Niệm Vọng Thiên Cầu Ðạo Ngày 27-10 Ất Sửu
Thể Theo Thánh Lệnh Của Ðức Phật Mẫu

 

LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ KIM MẪU

 

Hôm nay là ngày kỷ niệm Bí Pháp, Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì, Ðức Chí Tôn đã lập trong nền Chơn Giáo của Ngài. Bần Ðạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Ðức Chí Tôn hiểu rõ cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đạt Ðạo chúng ta tại mặt thế gian nầy. Hơn nữa Bần Ðạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường của một Ðấng yêu ái, một Ðấng tạo Càn Khôn Võ Trụ, Ðấng tự hữu hằng hữu, Ðấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái thâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.

Ðạt đặng đức tin phi thường ấy, năm Ất Sửu tức nhiên năm 1925 Ðức Chí Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần Ðạo không dám nói, Ngài đến cũng làm bạn Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Tháng 6 năm ấy Ngài dùng Cơ Bút huyền diệu của Ngài, Ngài dạy Vọng Thiên Cầu Ðạo (điều mà chúng ta không thể tưởng tượng đây là một cử chỉ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Ðạo phải để một dấu hỏi, hỏi tại sao buổi ấy Thượng Phẩm và Hộ Pháp có một đức tin vững vàng nghe theo lời Ngài vọng Thiên Bàn Cầu Ðạo. Ðiều mà chúng ta không thể tưởng tượng, đây là một cử chỉ chung chớ không phải cá nhân Thượng Phẩm hay Hộ Pháp mà lời giáo huấn của Ngài cốt yếu để cho toàn thể nhân loại nơi mặt địa cầu này nhứt hơn hết là nòi giống Việt Nam chúng ta.

Bần Ðạo nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là người bạn Cao Thượng Phẩm và Bần Ðạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để, một đức tin vững vàng làm sao đâu? Không thể sợ đặng, không còn biết vị kỷ nhục nhã chi hết, giữa khoảng đường nơi Châu Thành SàiGòn thiên hạ tấp nập, mà Ðức Chí Tôn buộc phải quì ngoài đường dựa bên lề ấy, quì đặng cầu nguyện xin Ðạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay!!! Ngài thử thách cho đến nước, thảng như mình quì đó mà thiên hạ không hiểu mình quì làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng có thể quì, còn làm mà người biết thì nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Ðức Chí Tôn phải rán mà làm.

Ngoài ra có ông bạn ai cũng đều biết là nhà thi sĩ danh tiếng, Bần Ðạo dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nỗi danh thi sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi phú của Ðức Chí Tôn quá chừng quá đổi, đến nước người thuộc lòng thi phú của Ðức Chí Tôn, rồi người họa lại với Ðức Chí Tôn, người làm như mê man vậy. Bần Ðạo thì nhột nhạt duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi hành quyền giáo hóa của Ðức Chí Tôn, còn người thi sĩ Bồng Dinh họa theo đó mà ngâm, thiên hạ thấy tấn tuồng dị hợm tụ lại đông lắm. Trước để một cái bàn Vọng Thiên Cầu Ðạo ngay chính giữa coi dị hợm lắm, Bần Ðạo mới gát hai tay lên cho đỡ mắc cở vừa gát lên thì cái bàn quây gõ nói chuyện.

Các Ðấng Thiêng Liêng đến không biết bao nhiêu, đến các vị Giáo Chủ cũng xuống giảng dạy chúng ta và làm nhiều kiểu lạ lắm; cũng lúc nầy Ðức Chí Tôn đã giáo hóa khá lâu các Ðấng Thiêng Liêng cũng đến cùng Thượng Phẩm và Hộ Pháp, tuy mới mà đủ đầu óc có một đức tin vững vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: Tuy buổi ban sơ mà dường như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi, nên Ðức Chí Tôn mới ra lịnh biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Ðấng vô hình, đãi 10 người: Ðức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Phần hữu hình có ba người: Thượng Sanh, Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu vâng mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng như có người ngồi vậy. Chén, đủa, muổng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đãi người hữu hình vậy; duy có ba người xác thịt là Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ Pháp. Bần Ðạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì? Ngài nói là Hội Yến Diêu Trì. Bần Ðạo nghe nói vậy thì hay vậy, chớ không biết giá trị Hội Yến là gì cả. Nghĩ chắc cũng có ảnh hưởng gì cần yếu đến tương lai của Ðạo mà vâng lịnh thôi, chớ không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.

Ba người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Ðức Phật Mẫu cũng như người sống kia vậy.

Bần Ðạo còn nhớ một chuyện lạ lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết, giờ biết Ðạo mới hiểu Ðức Chí Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần Ðạo. Bây giờ Bần Ðạo không dám nói lại, Ngài đến làm bạn cùng Thượng Phẩm và Hộ Pháp.

Chừng Hội Yến Diêu Trì rồi, các Ðấng Thiêng Liêng và các vị Giáo Chủ ra từ giả (thăng) kế Ðức Chí Tôn đến nhập cơ.

Thượng Phẩm và Bần Ðạo tọc mạch hỏi: - Khi nãy Diêu Trì Cung đến có Ngài đến ở đó không?
Ðức Chí Tôn trả lời: - Có chớ, Ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ.

- Ngài có thấy Diêu Trì Cung đến không?
- Có chớ, Chính mình ta tiếp đãi!

Cao Thượng Phẩm hỏi: - Diêu Trì Cung ngó thấy Ngài không?
- Không ngó thấy.

Cao Thượng Phẩm hỏi: - Sao vậy?
Ngài trả lời: - Ngài dùng phép ẩn thân.

Bần Ðạo tọc mạch hỏi tiếp: - Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Trì có thể đạt Ðạo chăng?
- Ðạt đặng chớ.

Cao Thượng Phẩm hỏi: - Phải làm sao?
Ngài nói: - Phải tu, bằng không tu thì chẳng đạt đặng.

Bần Ðạo hỏi: - Tu chừng bao lâu mới đạt đặng?
Cái đó Ngài làm thinh.

Bần Ðạo hỏi: - Một năm? Năm năm? Một ngàn năm? Mười ngàn năm? Một trăm ngàn năm?

Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các vị Nữ phái rán nhớ, Diêu Trì Cung, Bần Ðạo có giải nghĩa Hội Yến Diêu Trì là gì rồi đó.

Toàn Thánh Thể Ðức Chí Tôn là con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Ðạo bị bế Ngọc Hư Cung bác luật, Cực Lạc Thế Giới thì đóng cửa nên chúng sanh toàn cả Càn Khôn Vũ Trụ có tu mà thành thì rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn đạt pháp thì không phải dễ.

Cổ pháp định cho Chơn hồn về nơi Diêu Trì Cung, hưởng được Hội Yến Bàn Ðào tức nhiên hưởng được Hội Yến Diêu Trì, ăn được quả đào Tiên, uống được Tiên tửu mới nhập vô cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.

Giờ phút này Ðức Chí Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài, thay vì Bí Pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim Bàn Phật Mẫu đặng hưởng đặc ân thiêng liêng của Ðức Chí Tôn.

Ðức Chí Tôn buộc Phật Mẫu phải đến tại thế gian nầy để Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì tại cửa Ðạo nầy cho con cái của Ngài giải thoát, ấy là một Bí Pháp Thiêng Liêng duy có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.

Hôm nay là ngày Phật Mẫu đem Bí Pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế này trong cửa Ðạo này mà thôi.

Hôm nay là ngày lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Ðạo, xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần Ðạo cũng để ý đến lễ của Ngài hơn hết; từ tạo Thiên lập Ðịa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ nầy. Ngài đến tại mặt địa cầu 68 nầy đặng tận độ con cái của Ngài.

Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên vô tận của Ngài, chúng ta phải chiêm nghiệm lễ nầy để làm mật niệm cám ơn Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu, ấy là Bí Pháp của chúng ta đó vậy.

 

Ảnh tượng Ðức Phật MẫuCữu Vị Nữ Phật.

 


 

Q.1-05. Ngày 22-08-1925 (âl. 05-07-Ất Sửu): Bát Nương giáng làm thi vấn đề "Tiễn biệt tình lang".

 

Ngày kia ông Cao Hoài Sang ra đề: "Tiễn biệt tình lang", ý ông là ra đề thử.

Ngày 5 tháng 7 năm Ất Sửu (Thứ bảy, 22-8-1925)

Bà Bát Nương giáng làm thi vấn đề "Tiễn biệt tình lang" dưới đây:

Thi

Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.

Cách đôi ba bữa sau có Quí Cao giáng hòa nguyên vận bài thi Bát Nương:

Ình ình trống giục thảm trường đình,
Ðau nỗi chia phôi một chữ tình.
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi hòa thinh.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mãnh gương treo biếng mắt nhìn.
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.

Quí Cao
(Le 25 Aout 1925) Ngày 8 tháng 7 năm Ất Sửu.

 


 

Q.1-06. Ngày 19-12-1925 (âl. 04-11-Ất Sửu): Thần Sơn Quan Tổng Thống Tông Kim Diệu Võ Tiên Ông thi.

 

THẦN SƠN QUAN TỔNG THỐNG TÔNG KIM DIỆU VÕ TIÊN ÔNG

1.

Âm dương tuy cách cũng Trời chung,
Thấy trái nên đây mới tỏ cùng.
Thắt dạ thuyền xưa không đậu bến,
Ðau lòng hạc cũ chẳng về tùng.
Cúi đầu đành chịu thân trăm tuổi,
Ngước mặt ngơ trông bặt chín từng.
Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy,
Hay chi cá chậu với chim lồng.

2.

Chim lồng bao thuở lại non xanh,
Ngóng mắt trông vơi chốn thoát mình.
Dựng nước chẳng ai tài tướng lược,
Liều mình thiếu kẻ đáng hùng anh.
Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố,
Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh.
Thìn dạ chờ châu về hiệp phố,
Nơi mình sự nghiệp mới tan tành.

3.

Tan tành nhớ đến gánh giang san,
Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng.
Phú quí mồi câu con hạc lánh,
Ðỉnh chung gió thổi đám mây tàn.
Ðợi thời toan mượn cần câu Lữ,
Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.
Ly loạn gặp thời đời muốn chán,
Công danh phủi sạch hưởng thanh nhàn.

4.

Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên gia,
Trị loạn hằng xem thế nước nhà.
Bể hoạn dập dồi thương bấy trẻ,
Thành sầu chất chứa cám cho gia,
Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm,
Nhăn mặt nước chờ trận gió qua.
Thân ái mối dây tua nắm chặt,
Chít chiu ấy cũng một bầy gà.

5.

Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.
Nắng hạn trông mưa trông mắt mỏi,
Ðắng cay mộ nước một lòng chờ.
Ngoài khua tiếng giặc trong khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung quốc thiếu cờ.
Trí chúa tôi hiền không gặp chúa,
Nào người gánh nổi mối xa thơ.

19-12-1925

6.

Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng vững bền.
Ðắp lũy Cổ Loa chưa mấy mặt,
Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.
Thăng Long bao thuở nâng hùng khí,
Gia Ðịnh từ nhiên chấp ấn quyền.
Sông núi dật dờ chờ tạo khách,
Hóa Công nên núi Ðạo nên thiền.

7.

Nên thiền khi trước lập công danh,
Chín bệ xem qua chẳng trí quân.
Ích nước xủ tay khoe đẹp áo,
Lợi nhà vỗ bụng dưỡng tròn thân.
Nam Giao vắng vẻ đường cung kiếm,
Văn Hiến khô khan ngọn bút thần.
Danh vọng ru hồn quên thổ võ,
Thẹn nòi bộc lại mộ đai cân.

8.

Ðai cân đã có vẻ chi chưa,
Hay phận tù lao kiếp sống thừa.
Dập đất gập ghình chôn trẻ dại,
Ngừa thời điên đảo trí già xưa.
Ngồi hang thương kẻ mang da chó,
Ngự điện ghét quân đội lốt lừa.
Cái nhục giống nòi kia chẳng rửa.
Xoi hang mạch nước ý chưa vừa.

9.

Chưa vừa mộng mị với tây tà,
Dụ xác vong hồn dựa phách ma.
Tiêu hủy thân cây lằn lửa táp,
Tan tành hình nộm trận giông qua.
Rước voi phá mã đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong nhiểu điện tà.
Ðổ lụy hỏi người sao chẳng nhớ,
Ngọn rau tấc đất nước nhà ta.

10.

Nước nhà ta có tiếng anh phong,
Vẻ đẹp trời Ðông sắc Lạc Hồng.
Nam Hải trổ nhiều tay Thánh đức,
Giao Châu sanh lắm mặt Anh hùng.
Tinh trung lửa thét thành Bình Ðịnh,
Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Ðông.
Văn Hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công.

 


 

Q.1-07. Ngày 31-08-1925 (âl. 14-07-Ất Sửu): Nhàn Âm Ðạo Trưởng thi.

 

Ngày 14 tháng 7 năm Ất Sửu (31 Aôut 1925)

 

NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG

Thi

Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

 

CAO XUÂN LỘC
Giáng họa nguyên vận bài thư trên:

Sống thác từ xưa đã có chừng,
Nơi trần mãn tính trọn nhơn luân.
Ðò đưa phút chịu vùi ba tấc,
Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.

 

Ngày 15 tháng 7 năm Ất Sửu (01-09-1925)

CAO QUỲNH CƯ
Họa nguyên vận hai bài thi trên:

Cõi thọ là đâu khó độ chừng,
Ẩn tàng lội lạc bậc kinh luân.
Buổi già ước đặng đem thân gởi,
Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.

 


 

Q.1-08. Tháng 09-1925 (âl. tháng 08-Ất Sửu): Lục Nương & Thất Nương thi.

 

LỤC NƯƠNG làm thi hai câu, còn sáu câu nhượng cho ba ông làm:

Lục Nương: Trót đã đa mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách đời ơi!
Cao Quỳnh Cư: Oằn vai Thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.
Phạm Công Tắc: Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quý nhắm trò chơi.
Cao Hoài Sang: Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.
   
Lục Nương: Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong.
Cao Quỳnh Cư: Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
Phạm Công Tắc: Chiếc bách dập dồn dòng Bích Thủy,
Phồn hoa mờ mệt giấc Huỳnh Lương.
Cao Hoài Sang: Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.

 

THẤT NƯƠNG

Lừa dịp đình chơn viếng cố nhân,
Cảm tình trông đợi dạ ân cần.
Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

Ngày 22 tháng 8 Ất Sửu (8-9-1925)

 


 

Q.1-09. Ngày 20-10-1925 (âl. 03-09-Ất Sửu): Huyền diệu của ông A.Ă.Â, cũng là Thiêng Liêng thử ba ông coi có thương ông A.Ă. không.

 

Ðộ tháng 9 năm Ất Sửu, ông A.Ă. giáng hỏi với ba ông như vầy:

- Tôi nói lộ Thiên Cơ, trên Ngọc Hư bắt tội, xin Tam vị Ðạo Hữu cầu trên Ngọc Hư Cung tha tội tôi, nếu không lo cầu giùm thì tôi sẽ bị phạt.

Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh rất lo lắng. Ba ông vọng bàn Hương Án cầu Diêu Trì Cung. Ðức Cao Thượng Phẩm có đặt một bài thi rồi đọc trước bàn Hương Án như vầy: (1)

Vái van xin quí Cửu Thiên Nương,
Tâu với Ngọc Hư tỏ ngọn nguồn.
Vì nghĩa ...... mang trọng tội,
Nghĩ tình đồng Ðạo để tình thương.

20-10-1925
(Mồng 3 tháng 9 Ất Sửu)

 

(1) Xem huyền diệu ông A. Ă. cũng là Thiêng Liêng thử ba ông coi có thương ông A.Ă. không.

 


 

Q.1-10. Ngày 18-10-1925 (âl. 01-09-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn tá danh A.Ă. giải nghĩa: "Người trước nghĩ thương cơn tuyết nhuộm, Lũ sau buồn chạnh nỗi sương pha."

 

Ngày 01 tháng 09 năm Ất Sửu (18 Octobre 1925)

Có ông Thổ Ðịa Tài Thần giáng gõ bàn cho bài thi. Tôi rút hai câu của Thổ Ðịa Tài Thần, cầu A.Ă. giải nghĩa cho hiểu:

Người trước nghĩ thương cơn tuyết nhuộm,
Lũ sau buồn chạnh nỗi sương pha.

 

A.Ă. giải nghĩa: (Ông A.Ă. giải nghĩa cao kỳ lắm).

Có câu: Mã bì tuyết thể, nghĩa là da ngựa tuyết thân, chính là trang tài tướng chinh chiến một mình, da ngựa bọc thân tuyết sương đắp thể. Tỏ là đời ly loạn có câu tục ngữ nói: Gối vác nằm sương, chỉ là thân chịu nhọc nhằn cực khổ. Câu thi trên sửa lại như vầy thì nhằm điển văn hơn.

A.Ă. sửa lại hai câu của Thổ Ðịa Tài Thần:

"Thân trẻ phải cơn sương gối ướt,
Thương già gặp buổi tuyết thân pha".

Tuyết thân pha: Pha nghĩa là hòa lộn, chịu lạnh lùng đến đổi thân với tuyết cũng lạnh như nhau.

 

Phụ ghi: Nguyên bản chánh in là Ngày 25 tháng 9 năm Ất Sửu (18 Octobre 1925), đối chiếu với LỊCH THẾ KỶ XX (1901 -2000) Ấn bản năm 1976, nhà xuất bản PHỔ THÔNG - HÀ NỘI ghi Ngày 18 Octobre 1925 ngày âm lịch là 01-9-Ất Sửu.

 


 

Q.1-11. Ngày 20-10-1925 (âl. 03-09-Ất Sửu) 12 giờ khuya: Cửu Thiên Huyền Nữ dạy đạo.

 

CỬU THIÊN HUYỀN NỮ

Thiếp chào Tam vị Ðạo Hữu.

Phải tu tâm dưỡng tánh, phòng ngày sau đặng qui vị.

(12 giờ khuya ngày 20-10-1925).

 


 

Q.1-12. Ngày 14-11-1925 (âl. 28-09-Ất Sửu): Nhàn Âm Ðạo Trưởng thi.

 

Le 14-11-1925

NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG

  Thi họa vừa khi bước hứng nhàn,
Vòng trần luân chuyển luống lo toan.
Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,
Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.

1.

Buộc ràng túng tiếu cõi Nam Châu,
Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.
Phép nước đòi cơn mây gió thảm,
Nghiệp nhà lắm lúc nước non sầu.
Thương người để dấu noi người trước,
Hiệp chủng làm gương dắt lũ sau.
Cá chậu chim lồng chi dễ chịu,
Rừng xưa bến cũ thảnh thơi đâu?

2.

Thảnh thơi đâu buổi nước non nhà,
Nam đảnh hầu xem trận gió qua.
Ứa mặt ướm nâng nền thổ võ,
Bền lòng chờ đợi bến sơn hà.
Dập dồi bể hoạn thương bầy trẻ,
Lắc lỡ thuyền du hổ phận già.
Cũng muốn lẫy lừng xây thế cuộc,
Vòng trần ngặt đã bước chân ra.

3.

Bước chân ra nghĩ ngậm ngùi thay,
Nỗi ước nhiều phen khó cạn bày.
Rừng trước tuy vui chung rượu thắm,
Ơn xưa đâu lợt tấm lòng ngay.
Rèn tâm khá nắm dây thân ái,
Giữ dạ đừng quên mối cảm hoài.
Biển khổ mang bầu chờ tế độ,
Giựt giành chi khỏi trả rồi vay.

4.

Trả rồi vay tua vẹn lòng son,
Bia cũ gương trung dấu vẫn còn.
Ðội mão khỉ ngồi non hớn hở,
Lìa rừng cọp ngóng biển thon von.
Nào khi đất Việt trời ngang dọc,
Chừ lúc vùng Nam phận cúi lòn.
Xương thịt cũng đồng nhân loại thế,
Dày bừa há chẳng hổ sông non?

5.

Non sầu cỏ nhuộm đã phơi sương,
Thành cũ đường xưa cảnh để buồn.
Vạc ngả người đày trâu ngựa kéo,
Gia tàn yến rủ gió mưa tuông.
Vật còn biết mến ngày thong thả,
Mình há đâu quên chỗ cội nguồn.
Vầy hiệp đồng tâm liên ái kết,
Cường quyền sức mọn dễ chi sờn.

6.

Chi sờn máu thịt mảnh thân phàm,
Danh lợi mồi câu nhử tánh tham.
Ví biết trọng mình nhà nước trọng,
Ðừng quên tham nhục giống nòi Nam.
Non sông chẳng đổi theo lời nói,
Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.
Un đúc lòng thành chờ máy Tạo,
Có ngày khuấy nước chọc trời Nam.

7.

Trời Nam vừa thọ ánh dương quang,
Cương tỏa tiêu tan thấy cảnh nhàn.
Vần vũ suối bờ Thần tiếp Thánh,
Ồ ào Bến Nghé quỉ xô quân.
Hồn trung vì nước hơi vừa tỉnh,
Mắt trí xem dân đã quá làn.
Hồng Lạc giống nòi dầu thoát ách,
Là hai mươi triệu kẻ đồng gan.

8.

Ðồng gan mới biết đặng đồng tình,
Biết máu thịt mình mới biết binh.
Lợi lộc của nhà thì cứ lấy,
Thế quyền trong nước há ngồi xin.
Trống gông nô lệ sao ham muốn?
Hình bóng quan viên xúm giựt giành.
Lịch sử chép biên bao vẻ đẹp,
Ai từng đem nhục đổi làm vinh.

9.

Làm vinh nghĩ chẳng thẹn non sông,
Chín suối ông cha nhẫng tủi thầm.
Buồn thấy giống Hồng thây chúng xẻ,
Thảm xem giòng Lạc thịt người bầm.
Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,
Chín bệ ngày nay quỉ nhảy đầm.
Rút vỏ gươm linh ta quyết một,
Chẳng bao kẻ nghịch đặng ăn nằm.

10.

Ăn nằm nín nẳm đợi Chơn Quân,
Ta quyết sẽ cho kẻ hạ trần.
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
Thái bình trăm họ nhìn chơn Chúa,
Thạnh trị ba châu trổ trí Thần.
Ðộc lập gần ngày vui sắp đến,
Bỏ cơn đất Việt chịu tam phân.

 


 

Q.1-13. Ngày 15-12-1925 (âl. 30-10-Ất Sửu): Quí Cao hòa nguyên vận bài thi của Thuần Ðức.

 

THUẦN ÐỨC xướng (Tự là ông Bảo Pháp)

Mấy năm rồi cũng phủi tay không,
Ðường thế chiêm bao một giấc nồng.
Nặng nghiệp phong trần buồn với phận,
Lo bề trung hiếu thẹn cho lòng.
Trời cao chưa phỉ tình mây bạc,
Ðất túng càng khinh chốn chậu lồng.
Chờ gặp cố nhân lời dám hỏi,
Hỏi ra cho biết vận cùng thông?

 

QUÍ CAO hòa nguyên vận bài thi trên:

Một tiếng U Minh gióng cửa không,
Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
Ngồi thuyền Bác Nhã qua tình biển,
Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.
Cuộc thế lạnh lùng làn gió lọt,
Ðường đời ngán ngẩm bụi trần lồng.
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên Ðạo,
Oan trái phủi rồi phép Phật thông.

15-12-1925

 

A.Ă. giải nghĩa hai câu thơ của Quí Cao:

Ngồi thuyền Bác Nhã qua tình biển,
Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.

 

Bác Nhã Ma La Phật là Phật độ vong hồn qua khỏi biển khổ đặng đến Tây Phương, vì trước khi đến Tây Phương phải qua một cái biển khổ.

Biển tình: Tình là oan oan, oan oan là khổ. Biển tình là biển khổ.

Phồn hoa: Phồn nghĩa là trong vòng; hoa nghĩa là sắc dục. Phồn hoa nghĩa là trong vòng sắc dục. Giấc phồn hoa là giấc phàm.

 


 

Q.1-14. Năm 1925 (âl. Ất Sửu): Ðức Chí Tôn tá danh A.Ă. thu phục ông Nguyễn Trung Hậu (Ngài Bảo Pháp) & ông Lê Thế Vĩnh (Ngài Tiếp Thế).

 

Năm 1925, ông Nguyễn Trung Hậu nghe đồn ông Tắc, ông Cư, ông Sang xây bàn có vong về cho thi hay lắm, đồn tới tai ông, bữa nọ ông Nguyễn Trung Hậu đến nhà ông Cao Quỳnh Cư, ý ông muốn thử xem coi thiệt giả.

Ông đến đó hầu đàn, ông A.Ă. giáng gõ bàn cho ông Nguyễn Trung Hậu bài thi dưới đây:

Thi

Thuần văn chất Ðức tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Ðến hồi búa Việt giục cờ Mao.

Không ai biết cái biệt hiệu của ông Nguyễn Trung Hậu là Thuần Ðức, cho nên ông mới chịu nhập môn.

Ông Cao Quỳnh Cư cầu ông A.Ă. giải nghĩa: Cờ Mao búa Việt là vật binh quyền của Hiên Viên Huỳnh Ðế ban cho Trấn chư Hầu đặng quyền chinh phạt. Ngũ Ðế Thương Châu còn dùng:

Ðáng phạt thì phát cờ Mao,
Ðáng giết thì ban búa Việt.

- Cờ Mao: thì màu hồng, trên lá cờ có đề bốn chữ "Mao trừ loạn tặc".

- Búa Việt: trên lưỡi có khắc bốn chữ "Việt sát phản thần".

Bữa nọ ông Kiên và ông Vĩnh (là Tiếp Thế Vĩnh) làm việc nhà báo năm Ất Sửu 1925, ông A.Ă. cho hai ông một bài thi dưới đây:

Thi

Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
Nước nhà ví biết thân là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

12-11-1925

 


 

Q.1-15. Ngày 13-11-1925 (âl. 27-09-Ất Sửu): Quí Cao xướng thi & Bát Nương thi & A.Ă. giải nghĩa: "Niếp Tử Xe Châu"

 

Ngày 13 tháng 11 năm 1925

QUÍ CAO (xướng)

Thương nhau nhớ lúc xướng thơ hòa,
Sinh tịch đôi đàng phải cách xa.
Chén rượu đồng tâm nghiêng ngửa đổ,
Biệt ly nầy trách bấy Trời già.

 

THUẦN ÐỨC (họa) Quí Cao

Ðêm khuya tịch mịch gió thu hòa,
Chạnh nghĩa kim bằng dạ xót xa.
Ðạo lý những mong vầy một cửa,
Ngừa đâu rời rã buổi chưa già.

 

CAO QUỲNH CƯ (họa) Quí Cao

Mừng bạn hôm nay đặng hiệp hòa,
Âm dương đường gẫm chẳng bao xa.
Nhìn văn mà chẳng trông hình dạng,
Gặp mặt còn mong đợi tuổi già.

 

BÁT NƯƠNG

Ðộng đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ Thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc Ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

 

A.Ă.Â

Giải nghĩa: "Niếp Tử Xe Châu"

- Niếp Tử: Niếp là rương đựng sách. Tử là thầy Ðức Khổng Tử.

Niếp Tử: Là rương đựng sách của Ðức Khổng Tử, sau Tần Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò, nghĩa là chôn rương sách của Ðức Khổng Tử, tức chôn Ðạo Nho.

Niếp Tử dùng mà chỉ cài hòm để chôn người đạo đức, văn chương tài tình.

- Xe Châu: Nghĩa là nhà vàng, tỷ như xe Châu Võ Vương Cơ Phát dùng mà đi phạt Trụ đặng thâu thiên hạ, nghĩa là sự giàu sang phú quí chi cũng đựng trong xe ấy mà thôi.

Xe Châu là xe đựng sự giàu sang phú quí của kiếp con người.

 


 

Q.1-16. Ngày 27-11-1925 (âl. 12-10-Ất Sửu): Quí Cao, Thất Nương thi văn.

 

Ngày 27 tháng 11 năm 1925

QUÍ CAO

Tử sanh dĩ định tự Thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhất chi.
Bắc Ngụy quan vân tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

 

Ngày 28 tháng 11 năm1925

THẤT NƯƠNG (giải nghĩa hai câu chót)

Bắc Ngụy quan vân tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

Khi Như Hoành ở Bắc Ngụy đi thuyết chiến bên Giang Ðông gặp Bạch Hàm thì tâm đầu ý hiệp, kết làm anh em.

Khi Như Hoành về Ngụy thì anh em khó phân tay.

Như Hoành than rằng: "Bắc Ngụy văn thiên thụ".

Bạch Hàm than rằng: "Giang Ðông nhất mộ vân".

Nghĩa là: Ngó Bắc Ngụy nghe ngàn cây đưa tiếng bạn. Nhìn Giang Ðông thấy khóm mây vẽ hình anh.

 


 

Q.1-17. Ngày 24-11-1925 (âl. 09-10-Ất Sửu): Thất Nương giải nghĩa: "Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn" & Thất Nương giải nghĩa: "Trải bao thỏ lặn ác tà" & Lục Nương thi & A.Ă. thi.

 

THẤT NƯƠNG

Giải nghĩa: "Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn"

Là phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương. Dương là đại thọ. Ðạo Ðức Chơn Kinh có câu: Dương vô trần nhiểm, đạo giả như dương. Kinh Phật có câu: Dương thủy năng hủy tam đồ khổ hải chi tội.

Dương bạn: là bờ dương, là nền đạo đức.

Chim phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương, nghĩa là Phụng liễn của Tây Vương Mẫu đòi về nền đạo đức.

24-11-1925

 

THẤT NƯƠNG

Giải nghĩa: "Trải bao thỏ lặn ác tà"

Ngôn Ðường Thi có câu: Nha phi Ðông Hải chí Tây Sơn nhứt nhựt trường.

Con chim ác bay về biển Ðông tới núi Tây thì giáp một ngày. Mượn điển văn ấy mà chỉ rằng: Mặt Trời sớm mai mọc tại hướng Ðông, chiều lặn về hướng Tây. Khuất bóng ác tức khuất bóng mặt Trời, thì qua một ngày.

"Vừng ô" không có điển văn.

Thi văn có câu: "Ô Thước qui sơn". Quạ bay về núi.

Ðã biết rằng, hễ chiều thì biết bao nhiêu loài chim bay về núi, song đem quạ mà chỉ rằng chiều tối thì phải hơn, vì quạ đen lông đen cánh.

 

LỤC NƯƠNG

Chanh ranh vạn thế ở trong vòng,
Giành giựt lẫn nhau miếng đỉnh chung.
Khanh Tể sao bằng tên Ðạo Sĩ,
Hết đời ai giữ chức làm ông.

 

A.Ă.Â

Người hứng trăng thanh kẻ bụi vùi,
Âm dương cách trở chẳng cùng vui.
Hạc mây đã khỏi lâm trần cấu,
Cõi tục thương người xúc dạ tôi.

 


 

Q.1-18. Ngày 15-12-1925 (âl. 30-10-Ất Sửu): Bồng Dinh xướng thi & Lục Nương họa.

 

BỒNG DINH (xướng)

Dã Tràng ai dễ xét công đâu?
Bãi biển thường xe cát lấp đầu.
Xúc cát trải bao cơn sóng lượn,
Nhăn mày cười bởn khúc sông sâu.
Biết không nên việc nơi Trời nước,
Nào có nao lòng cuộc bể dâu?
Nhiều ít có danh trên võ trụ,
Kẻo mà thẹn với mấy bầy trâu.

Lão Bồng
15-12-1925 (30-10-Ất Sửu)

 

LỤC NƯƠNG (họa)

Công Dã Tràng công cán để đâu,
Muốn ngăn sóng cả khỏa ngang đầu.
Ðất vò nên lọn xây thành lở,
Nước dập tuông bờ lở giạu dâu.
Ðấp biển vì lo bờ biển lở,
Moi sông bởi muốn ngọn sông sâu.
Nên hư trối mặc đời phi thị,
Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu.

 


 

Q.1-19. Ngày 16-12-1925 (âl. 01-11-Ất Sửu): Vọng Thiên Cầu Ðạo.

 

VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO

Ngày 27-10-Ất Sửu Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng mách bảo rằng: Mùng một nầy, tam vị Ðạo Hữu Vọng Thiên Cầu Ðạo (1)

Bà thăng rồi ba ông hợp nhau bàn giải không hiểu cầu Ðạo là gì mà Bà dạy, để cầu hỏi mấy em.

Ngày sau ba ông cầu Thất Nương hỏi: - Thất Nương dạy dùm cầu Ðạo là gì?

Thất Nương nói: - Không phải phận sự của em, xin hỏi ông A.Ă.Â.

Ngày sau nữa, có các Ðấng giáng về ba ông hỏi thì các Ðấng cũng nói: Không phải phận sự của tôi xin hỏi ông A.Ă.Â.

Ngày 30 tháng 10 năm Ất Sửu (15-12-1925) ông A.Ă. giáng dạy rằng: - Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Ðạo. Tắm gội cho tinh khiết ra quỳ giữa Trời cầm chín cây nhang mà vái rằng: Ba tôi là:

Cao Quỳnh Cư,
Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang.

Vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.

Sớm mai ngày mùng Một, ông Cao Quỳnh Cư đi mượn Ðại Ngọc Cơ của ông Tý ở ngang nhà (cũng ở đường Bourdais).

Nhớ lời ông A.Ă. dạy, ba ông quỳ ngoài sân sắp đặt có một cái bàn nhỏ, quỳ chống tay trên bàn, cầm 9 cây nhang vái:

Ba tôi là:

Cao Quỳnh Cư,
Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang.

Vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh. Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm vái như lời ông A.Ă. dạy, không nhớ tới cái vụ quỳ ngoài đường có kẻ qua người lại dập dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, đi coi hát về, họ dừng chân lại coi ba ông nầy cúng vái ai mà quỳ ngoài sân cỏ như vậy.

Ai coi mặc ai ba ông cứ quỳ đó cầu khẩn van vái cho tàn hết 9 cây nhang, bổng đâu có anh Bồng Dinh đến vịn cái bàn chỗ ba ông đương quỳ mà ngâm thi, thiên hạ đi đường nghe ảnh ngâm nên xúm lại coi. Cúng cầu khẩn xong rồi, vô nhà kế tới giờ Vọng Thiên Cầu Ðạo (cũng đêm 16-12-1925).

Ðức Cao Ðài giáng viết chữ Nho; ba ông không hiểu chữ Nho, nên khi Ðức Cao Ðài thăng rồi thì ba ông thỉnh cái bàn ra mời ông A.Ă. Ðại Tiên xin giảng nghĩa bài thi tứ cú của ông Cao Ðài trên đây.

Ông A.Ă. nói: - Cao Ðài Thượng Ðế ý nói nhị ... phải nghĩ cho thấu, ông A.Ă. cho bài thi cũng trong giờ nầy:

Cứ níu theo phan Ðức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành dương hưởng Ðạo nhàn.

 

(1) Ngày Vọng Thiên Cầu Ðạo là sắp vô đề mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Các Ðấng dìu dắt ba ông lần lần, nghĩa là ba ông mới nhập trường Ðạo.

 

Ảnh Ngọc Cơ.

 


 

Q.1-20. Từ ngày 06-12-1925 đến 23-12-1925 (âl. tháng 10 & tháng 11 Ất Sửu): Thi văn dạy Ðạo của Ðức Chí Tôn tá danh A.Ă. và các Ðấng.

 

A.Ă. (họa Bồng Dinh)

Nhớ tình nhả ngọc với gieo vàng,
Bồng đảo trần gian cách trở đàng.
U hiển không từ nhơn nghĩa cũ,
Gặp nhau xin phó bóng thiều quang.

6-12-1925

 

Nước trí non nhân hứng Ðạo thoàn,
Một bầu nhựt nguyệt nỗi mênh mang.
Ðờn tòng réo rắt gieo hơi oán,
Nhạc suối ro re trỗi khúc xang.
Chim nước chào người bay rộn rực,
Cây che tiếp khách bước an nhàn.
Dừng chơn ngó lại miền nhơn sự,
Thương kẻ lo đời chẳng rảnh rang.

7-12-1925

 

Vịnh Mai

Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết não,
Thi không mai tuyết thế không xuân.

14-12-1925

 

Cũng đồng địa vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết giành trong sạch mai giành hương.

14-12-1925

 

Nhơn vô tùng thế tắc tùng thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
Mạc hối tiền trình căn dĩ định,
Tự nhiên dĩ hậu phản như tiền.

14-12-1925

 

MINH NGUYỆT TIÊN ÔNG

Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một Ðạo tức một cha.
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa.

19-12-1925

 

A.Ă.Â.

Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.


Có cơ có thế có tinh thần,
Từ đấy Thần Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.

20-12-1925

 

BÀ THIÊN HẬU (Cho ông Cao Quỳnh Cư)

Hỏi số từ thân sẽ thế nào?
Tám mươi gần mãn số Thiên Tào.
Cháu con sum hội yên thân lão,
Sung túc dài dòng dõi họ Cao.

22-12-1925

 

THẤT NƯƠNG

Ðã cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách mặt mà lòng chẳng lảng xao.
Ðàng Ðạo càng đi càng vững bước,
Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

22-12-1925

 

Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Ðạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
Một bước một đi đường một tới,
Lòng thành xin trọng thấu Cao Ðài.

22-12-1925

 

LỤC NƯƠNG

Từ khi hiệp mặt buổi Trung Thu,
Cảm tình nhìn biết đứa em ngu.
Một chung háo nghĩa bằng vàng nén,
Phòng sau hội ngộ chỉ đường tu.

23-12-1925

Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E chư huynh trưởng trách em thầm.
Tuy cách xa mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hòa đọc lại ngâm.

23-12-1925

 

BẠCH NHẪN ÐẠI TIÊN

Ngọc Cung gìn giữ động Ðình Tuyền,
Ðại Ðế ban ơn chưởng trọn quyền.
Tam Giáo lành khen cùng ác trị,
Dạy đời biết trọng lấy ân Thiên.

23-12-1925

 

BÁT NƯƠNG

Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

23-12-1925

 

Mừng nay Thanh Thủy giải dây oan,
Ðường Ðạo từ đây bước vững vàng.
Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.

 

HUỆ MẠNG TRƯỜNG PHAN

(Là ông Thầy Chùa nhỏ trong núi Ðiện Bà).

Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng Ðảo ngày nay đặng hiệp vầy.

23-12-1925

Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn,
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.

23-12-1925

 


 

Q.1-21. Ngày 25-12-1925 (âl 10-11-Ất Sửu): Thi văn dạy Ðạo của Ðức Chí Tôn tá danh A.Ă. và các Ðấng.

 

25-12-1925 Noel

A.Ă.Â

Cao Ðài đã hiểu lòng của ba đệ tử: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang.

Ngài đã ban đầy ơn cho mỗi người, đêm nay phải vui mừng vì là ngày của Thượng Ðế xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe).

Ta rất vui lòng đặng thấy ba đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. Giờ ngày gần đến đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa. (Cúng tại nhà ông Cao Quỳnh Cư, đường Bourdais, số 134 SàiGòn).

 

A.Ă.Â

Trước vốn thương sau cũng thương,
Một lòng nhơn đức giữ cho thường.
Trông ơn Thượng Ðế tuông rời rộng,
Sum họp ngày sau cũng một trường.

 

HỚN THỌ ÐÌNH HẦU

Tiết nghĩa trung cang Hớn đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,
Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

25-12-1925

 

A.Ă.Â

Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Thầy khuyên trước một giờ nầy, phải cầu nguyện cùng Ngài và nên coi là ngày vui mừng.

 

LÝ BẠCH (Noel 1925)

Ðường trào hạ thế hưởng tam quan,
Chẳng vị công khanh chỉ hưởng nhàn.
Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng Ðảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.

 

ÐỒ MỤC TIÊN (họa Lý Bạch)

Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng Lai vui Ðạo hưởng an nhàn.
Thi Thần vui hứng ngoài rừng trước,
Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nồng hạ trời thương đưa gió quạt,
Nắng thu đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giái vui mùi Ðạo,
Mơi viếng kỳ sơn tối cẩm san.

 

LỤC NƯƠNG

Vui nhơn vui Ðạo lại vui thiền,
Vui một bước đường một bước yên.
Vui bóng Cao Ðài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Ðế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế tải ngăn nhơn sự,
Vui một màu Thiên đóng Cửu tuyền.
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.

Noel 1925

***

Trước vẫn tiếng hứa lời không tìm biết danh Ðại Tiên sao nay còn hỏi. (1)

Ba con chưa đặng thông đạo đức cho lắm! Thầy phải dằn ý nói, sau sẽ rõ, vì ba con cần dùng người (2) chỉ dẫn nữa.Thầy để vậy cho có người chỉ dẫn ba con mọi việc đều do nơi Thầy, con đừng lo lắng.

Cư! Không phải vậy, trước sau như một.

Cư bạch: - Tôi đã có xin ăn chay thêm hai ngày 30 và 15 đặng tinh khiết mà cúng Ðức Cao Ðài Thượng Ðế.

A.Ă.Â: Hay lắm ... Chỉ trông cho ba vị đi càng ngày càng vững trên đường Ðạo.

Ái nhơn ... sẽ dẫn giải lần một ngày một tí ... Xin kiếu.

25-12-1925

 

(1) Nghĩa là ba ông hỏi ông A.Ă. là ai cho ba ông biết, nên ông A.Ă. trả lời trước đây, vì ba ông chưa biết lập Ðạo.

(2) Người chỉ dẫn là Cửu Nương Diêu Trì Cung và các Ðấng.

 


 

Q.1-22. Ngày 31-12-1925 (âl. 16-11-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn tá danh A.Ă. xưng danh THẦY & Thánh St Piere thi.

 

31 Décembre 1925

A.Ă.Â

Ba con thương Thầy lắm há?

Con thấy đặng sự hạ mình của A.Ă. như thế nào chưa? Con có thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa? Người quyền thế nhứt như vậy có thể hạ mình bằng A.Ă. chăng?

A.Ă. là Thầy.

Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không?

Cao Quỳnh Cư bạch: - Thấy nhơn sanh chưa rõ sự huyền diệu của Thầy, họ nói phạm thượng, ba con binh vực Thầy, ba con cải vã với họ.

Thầy biết ... Cười ...

Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy mún gì chưa? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.

Sự cao kỳ của Lục Nương, con có đặng mảy mún gì chưa? Học sự cao kỳ ấy.

Sự nhân đức của Nhất Nương, con có chút đỉnh gì chưa? Phải học nhân đức của Nhất Nương.

Tình nghĩa yêu mến của con có bằng Bát Nương không? Phải học.

Phải học tình nhân ái, trung tín, cứu giúp của ba con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương chăng? (1) Phải học gương.

Sự kính nhường ba con có bằng Cửu Nương chăng? Phải học.

 

(1) Cửu Thiên Nương Nương là Ðức Phật Mẫu.

 

31 Decembre 1925

ST PIERE

Thiên đàng giữ cửa góc Trời Tây,
Truyền Ðạo cho dân biết mặt Thầy.
Cứu chuộc đã gần đôi ngàn tuổi,
Cao Ðài phú thác dắt dìu bây.

 


 

Q.1-23. Ngày 01-01-1926 đến ngày 07-01-1926 (âl. tháng 11-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn khởi sự dạy Ðạo.

 

THẦY

Con hiểu Jésus là ai chăng?

Trước Ta đã đổ máu cho loài người vì thương yêu.

Nay Ta đến cứu loài người cũng vì thương yêu.

Bây đủ thương yêu Ta dường ấy chăng?

Ta cần bây biết ăn năn hầu cứu chữa bây.

Vendredi 1er 1926

 

THẦY

Cư, Tắc! Hai con đừng lấy làm việc chơi nghe; Thầy dặn hai con một điều, nhứt nhứt phải đợi lệnh Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán nghe.

Phận sự hai con, trách nhậm hai con Thầy đã định trước song ngày giờ chưa đến phải tuân lời Thầy nghe.

Từ đây, Thầy khởi sự dạy Ðạo cho. (1)

2 Janvier 1926

 

(1) Xin quí ông nhớ ngày 02-01-1926, Thầy khởi dạy Ðạo.

 

Thầy khen hai con tụng kinh.

Thầy đã nói A.Ă. là Thầy, còn Cung Diêu Trì là Cung Diêu Trì các Thánh đều có quả, ấy là những Ðấng Thầy lựa sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu thường, vì mỗi người đều có phận sự.

Chư Tiên và Chư Thánh đều có quả, song đừng triệu về mà chơi, kỳ dư có điều gì học hỏi.

4 Janvier 1926

 

Mme Cư bạch với Thầy rằng: - Má con mắc ở xa làm sao con đi độ được.

Thầy: - Hiếu! Con biết một lòng tu niệm đạo đức của con đủ cứu Cửu Huyền Thất Tổ rồi, huống là mẹ con, để Thầy định đoạt con đừng lo buồn.

Cư! Thầy khen con đó, cử chỉ xử đời của con.

Tắc! Thầy dặn con đừng buồn rầu mà lo lỗi Ðạo để cho Thầy định liệu, nghe và tuân theo.

Jeudi 7 Janvier 1926

 


 

Q.1-24. Ngày 11-01-1926 (âl. 27-11-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn cho thi khi ông Lê Văn Trung nhập môn cầu Ðạo.

 

THẦY

(Le 11 Janvier 1926 là ngày ông Lê Văn Trung đến nhà Cao Quỳnh Cư hầu Ðức Chí Tôn để nhập môn cầu Ðạo ở Sài Gòn).

Già trí đừng lo trí chẳng già,
Lương tâm mình biết hỏi chi xa.
Thềm đầu Trời ngó lòng Nhơn Ðạo,
Hư thiệt rồi đây cũng biết mà.

11-1-1926

 


 

Q.1-25. Ngày 13-01-1926 (âl. 29-11-Ất Sửu): Thất Nương, Lục Nương thi.

 

THẤT NƯƠNG

Người vô tình kẻ bạc tình,
Ba anh chẳng nghĩ nghĩa đồng thinh.
Ðặng chim trách kẻ toan quên ná,
Buồn bực cho đây vẫn một mình.

13-1-1926

 

Thử lòng tri kỷ đó mà thôi,
Tương ngộ có hơn bảy tháng trời.
Yêu mến một lòng đây rõ biết,
Thỉ chung đâu để hổ cùng lời.

Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang hỏi Thất Nương: - Anh trách sao em không nói thật A.Ă. là ông Trời, em thấy ba anh cũng như mù em cứ gạt hoài!

Thất Nương: - Trời là Trời, em là em. Em rõ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng vậy em mừng.

 

LỤC NƯƠNG

(Mừng ba ông hiểu Ðạo)

Mừng nay đường Ðạo đã êm chơn,
Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn.
Rượu cúc Bàn Ðào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng vai Thánh khảy đờn.
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục phẩm chi sờn.

13-1-1926 (Cầu Kho)

 


 

Q.1-26. Ngày 14-01-1926 (âl. 14-12-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn, Hoa Nhất Nương, Bát Nương thi.

 

THẦY

Thành tâm niệm Phật,
Tịnh, tịnh, tịnh, tịnh, tịnh.
Tịnh là vô nhất vật,
Thành tâm hành Ðạo.

14-1-1926

 

Ông Ðốc Bản xin chấp bút (Cầu Kho)

THẦY

Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng. (1)
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn bực rồi sau mới có mừng.

14-1-1926

 

(1) Ông Ðốc Bản xin chấp bút, Thầy cho bài thi nầy ám chỉ Thầy định cho ai thì nấy đặng, chớ không phải ai cũng có thể cầu cơ chấp bút đặng.

 

THẦY

Cho ông thầy thuốc Tri

Ðặng ngọc mà chê ngọc chẳng lành,
Ðường Tiên chẳng lựa, lựa đường danh.
Môi cầu chí quyết xua Hiền Thánh,
Lòn lõi vùa sang bụng chẳng đành.

14-1-1926

 

THẦY

Cầu y càn huyết bịnh từ vương,
Trần thế biết Ta hỏi mối đường.
Văn chất chưa hay Trời nhỏ phước,
Ðôn rằm người bịnh khỏi tai ương.

14-1-1926

 

(Con gái ông Phán Lê Tấn Sang ở Phan Thiết, đau hai bên gò má sưng lớn, cô nầy cầu Thầy xin thuốc. Thầy cho bài thi rồi Thầy dặn coi bốn chữ đầu mà cầu thầy thuốc.

Người con gái ấy lên Docteur Trần Văn Ðôn chích thuốc ít bữa mạnh).

 

HOA NHẤT NƯƠNG

Em cám ơn hai anh, em xin hai anh hãy gắng công học Ðạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc Ðạo.

Coi bửu vị làm trọng, đừng ham luyến hồng trần mà phải đọa. Ðôi lời thành thật, xin hai anh thương tình gìn giữ, mắc hầu, em không thể nán lại lâu, em xin kiếu, lâu lâu em sẽ nói rõ.

14-1-1926

 

BÁT NƯƠNG

Em mừng hai anh và Ðại Tỷ (Nguyễn Thị Hiếu). Em buồn cho Thanh Thủy không đến.

Nỗi phận vô duyên phận chẳng đành,
Trách ai mộ thói yến cùng anh.
Nương mây đợi mỏi lòng tình ái,
Mượn ngọc trông ngơ tấm liệt trinh.
Vuốt dạ riêng đau người một cảnh,
Dằn thương cố nhớ buổi chung tình.
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn gìn.

14-1-1926

 


 

Q.1-27. Ngày 16-01-1926 (âl. 03-12-Ất Sửu): Quí Cao thi văn.

 

QUÍ CAO

Ðã lâu mà không dám nói, vì em còn phải tu như hai anh vậy. Không dám nói vì hai anh có Thầy, em không dám lộng quyền.

Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Ðạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Ðôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện Khí thông thương Khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.

Phương: Là hướng, là đường đi.
Tường: Là lành.
Bường: Là bình.
Tịnh mẫn: Là êm sáng.
Nhập thể: Ðem thần sáng vào mình đặng êm sáng.

Từ đây, xin Nhị huynh hỏi Thầy, đừng hỏi em, em nói mà phạm tội.

Em xin kiếu.

16-1-1926

 

QUÍ CAO

Ngũ kỵ: Hành, tỏi, xả, ớt, tiêu.

Theo Phật Giáo thì kỵ, Tiên Giáo thì không.

Phật vì tích Thanh Ðề Mục Liên gọi là uế vật ... là phi, Tiên Ðạo cho dùng các thảo mộc, chẳng kỵ vật chi.

16-1-1926

 


 

Q.1-28. Ngày 21-01-1926 & 23-01-1926 (âl. 08 & 10-12-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn thi.

 

(Có người Ðạo Phật đến hầu Thầy)

THẦY

Ngươi muốn biết Ðạo Ta, nghe dạy:

Thiệt thiệt hư hư dễ biết chăng,
Hành tàng chơn Ðạo gọi sao rằng.
Khai Thiên lập Ðịa ai là chủ,
Thánh, Phật là ai dám đón ngăn.

21-1-1926

 

Bản, Kỳ, Trung, Cư, Tắc nghe dạy:

Mặt nhật hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết Ðấng Cao Ðài.
Cũng con cũng cái đồng Môn đệ,
Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai?

21-1-1926

 

THẦY

Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền Ðạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật Ðạo vốn như nhà.

23-1-1926

 


 

Q.1-29. Ngày 27-01-1927 (âl. 14-12-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn và các Ðấng khai đàn Cao Quỳnh Cư.

 

QUÍ CAO

Buồn xa cách mặt dễ xa lòng,
Nhờ dạy thi văn mới đặng ròng.
Cái nghĩa đệ huynh là nghĩa trọng,
Thâm tình cố cựu mấy thu đông.

 

THẤT NƯƠNG

Bạc tình chi lắm hỡi ai ơi!
Bảy tháng chung vui đã mất rồi.
Khi hứng trăng thơ khi gió sách,
Ðèn khua nay luống một mình thôi.

27-1-1927

Giải nghĩa: Thất Nương nói thử với ba ông, vì khi Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật đến độ ba ông trong bảy tháng, xong rồi thì giao lại cho Ðức A.Ă. và quí cô phải đi phổ độ nơi khác, nên bà Thất Nương lâu giáng buồn mới có bài thi trên đây.

Mme Cư hỏi: - Hôm nọ chiêm bao ngó thấy em ló mắt dòm chị và cười, phải quả vậy chăng? Xin nói lại cho chị mừng.

Thất Nương: - Ðại Tỷ sẽ nghe em nói riêng.

Cao Quỳnh Cư: - Thôi em nói với Ðại Tỷ.

Thất Nương: - Không nói, anh nghe khính.

 

Ông CAO HOÀI SANG (Hòa nguyên vận bài thi của Thất Nương trên đây)

Phải nào bạc bẻo hỡi em ôi!
Vì phận nghĩa kia xử khó rồi.
Tuy chẳng gần nhau như buổi trước,
Lòng kia quyết giữ đến cùng thôi.

Hay lắm! Cám ơn Tam Ca, Còn Ðại Ca và Nhị Ca.

 

CAO QUỲNH CƯ

Chạnh lòng Hiền Muội xót thương ôi!
Nhắc nhở khôn nguôi những chuyện rồi.
Bảy tháng gấm thêu lời nhỏ nhẹ,
Ghi tâm khắc cốt trọn đời thôi.

Em tưởng ba anh quên em rồi chớ, buồn quá! Trước sao thì sau vậy, lòng thương tưởng ba anh em chẳng quên, Em buồn là từ đây ít đặng gần gũi nhau nữa.

Em mắc lo cứu độ nơi khác, phận sự phải vậy.

Em xin kiếu.

27-1-1926

 

LỤC NƯƠNG

Chào ba anh và Ðại Tỷ.

Thanh Thủy nóng biết, em xin cạn bày:

Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ trần bước tục phải đua chen.
Võ đài chờ trả rồi oan trái,
Xủ áo phồn hoa lại cảnh Thiên.

Em mừng ba anh đặng gặp nguồn Ðạo.

27-1-1926

 

BÁT NƯƠNG

Mừng ba anh và Ðại Tỷ.

Thanh Thủy thế nào Lục Nương mách miệng, cứ do theo thi hành cho kịp hai anh. Em xin hiến ba anh một bài:

Chờ về vắng bặt tiết thu qua,
Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha.
Vườn trước ngơ trông cây liễu rũ,
Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.
Thi đề thảm lóng hơi oanh thán,
Cầm trổi buồn nghe tiếng dế hòa.
Dậm thẳng lương nhân xin khá gắng,
Ðường dài nghĩa nọ dễ đâu xa.

27-1-1926

 

THẤT NƯƠNG

Em chào ba anh và Ðại Tỷ.

Hèn lâu em không chuyện vãn cùng ba anh. Em xin ba anh coi lại thế đời dường nào? Cái bông Phù Dung sớm còn tối mất, còn hơn một kiếp con người, vì nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà buổi sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi. Chung qui ngó lại dầu sống trăm tuổi chưa được một điều đắc chí; chết là hết, cái đời tạm nầy sách Phật gọi là khổ hải.

Em xin ba anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nỡ bỏ đi, em chỉ tiếc dùm đó thôi.

Ðã vào đường chánh cứ do đó bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng.

27-1-1926

 

M. Lê Văn Trung hỏi: - Có duyên luyện Ðạo cùng chăng xin em mách dùm.

- Ðã gặp Ðạo tức có duyên phần.

Rán tu luyện siêng thì thành, biếng thì đọa, liệu lấy mà răn mình. Phải sớm tính một ngày qua, một ngày chết đừng dụ dự.

Em xin kiếu.

27-1-1926

 

Khai đàn Cao Quỳnh Cư

THẦY

Ðã để vào tòa một sắc hoa,
Từ đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung thành một dạ thờ Cao sắc,
Sống có Ta thác cũng có Ta.

Ðài sen vui nhánh trổ thêm hoa,
Một Ðạo như con ở một nhà.
Hiếu nghĩa tương lai sau tụ hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.

27-1-1926

 

LÝ BẠCH

Có công phải biết gắng nên công,
Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,
Ðơn tâm khó định lấy chi mong.

27-1-1926

 

THẦY

- Hay! Hay lắm đó ba con.

Cư bạch: - Thầy khen ba con về việc chi hay?

- Tụng kinh.

- Tắc, hết Cư rồi tới Tắc.

Nó thật thà, vả lại nó còn xác thịt cũng như hai con, ai dưới thế nầy đặng trọn vẹn, hai con chỉ tên cho Thầy biết; duy có một mình Thầy đây mà thôi, mà Thầy là Thầy của hai con, nếu giỏi học theo mới đặng mảy may chút ít.

27-01-1926

 


 

Q.1-30. Ngày 28-01-1926 & 29-01-1926 (âl. 15 & 16-12-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn dạy đạo.

 

Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.

Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng mơ oan nghiệt một đời nầy.
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn Ðạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.

28-1-1926

 

Thầy vui vì các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Trung! Thầy khen con đó.

29-1-1926

 

Cư, Sang, Tắc muốn theo anh con vào xem Hội Minh Lý.

Kỳ (1) có con Thầy mới cho ba đứa nó đi ... con, con chỉ những sự bái quị của Thầy buộc thế nào và cắt nghĩa cho nó hiểu.

 

(1) Anh Phủ Kỳ: Những sự bái quị bên Minh Lý lạy đủ 12 lạy, còn bên Tam Kỳ Thầy cho mỗi lạy 4 gật, thì 3 lần đủ 12 lạy.

 


 

Q.1-31. Ngày 31-01-1926 (âl. 18-12-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn khai đàn cho M. Phủ Kỳ & Ðức Chí Tôn khai đàn cho M. Trung.

 

Khai đàn cho M. Phủ Kỳ

THẦY

Cao mấy từng mây lố mặt Trời,
Ðài sen vui nở nhánh bông tươi.
Ðạo mầu cậy gã truyền nhơn sự,
Dạy trẻ cho an lấy Ðạo Ðời.

31-1-1926

 

THẦY

Thầy vui mừng các con.

Trung, con thờ Thầy trên hết là phải, con đem tượng Quan Trường qua bên tay trái Thầy, còn Quan Âm bên mặt. Con thờ Lý Thái Bạch dưới Thầy. Ðại Từ Phụ con hiểu lòng thương là bực nào?

Tắc! con không có miệng phải không?

Thầy viết, con phải cần Thầy để dạy dỗ, đừng ngại.

Cư hỏi: - Thưa Thầy, con chấp bút chưa đặng.

31-1-1926

 

Khai đàn cho M. Trung

THẦY

Một Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

Tắc, có tuân mạng lệnh Thầy chăng?

Thầy có cấm con đừng dự việc hội đàm chăng?

Con sắp đặt hoàn thành rồi thối chức.

31-1-1926

 


 

Q.1-32. Ðầu tháng 02-1926 (âl. 12-Ất Sửu): Ðức Chí Tôn dạy đạo.

 

THẦY

Minh:

Một cuộc phồn hoa biếc sắc xưa,
Niên cao trở gót thảm khi vừa.
Công danh đã đủ còn mơ ước,
Một cuộc tang thương đã thấy chưa?

Gia đình oằn oại gánh đôi vai,
Thế cuộc nên hư cũng một tay.
Chưa mãn xuân mai đơm lá bích,
Ngày xuân đừng ỷ phận còn dài.

Chưa biết buổi đua chen, mà đã gặp nhiều khi thất nguyện.

01-02-1926

 

THẦY

Cư, Tắc: Hai con ham cười, Thầy sẽ cho cười một phen cho đã, lập chí cho nghiêm, phòng sau mới dạy người nghe hai con.

Trung xin phép cho Cư, Tắc vô cùng Thầy xin độ Tương, Kiêm. (Nghĩa là qua tháng 2-1926 mà anh Phủ Tương chưa nhập môn, nên anh Cả xin cho hai ông Cư, Tắc độ Tương là cớ ấy).

 

THẦY

"Mừng thay" chớ! (Mỗi lần Thầy giáng thì đọc bài "Mừng thay", nay ba ông quên đọc Thầy nhắc).

Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo đời tua biết đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.

Nghĩa là sắp nhỏ của con dạy, sau cũng nên người ở đời, ấy là đời nếu biết trọng đời thì gắng dạy nó nên hiền.

Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng hiền.

 


 

Q.1-33. Ðêm 12-02-1926 (âl. Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu): Ðức Chí Tôn Thi.

 

Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl. 12-02-1926)

THẦY cho ông Cao Quỳnh Cư

Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu cái dại mới là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

Cư, Tắc, Sang! Trong năm mới này Thầy trông mong ba con rõ thấu đạo đức hơn nữa, gắng chí nghe!

 

THẦY cho thi Quan Phủ Vương Quang Kỳ

Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề Ðạo giữ tân.
Vô lao công quả tu đương tác,
Niên quá niên hề Ðạo tối tân.

 

THẦY cho ông Lê Văn Giảng

Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe nơi Ðại Ðạo rán nghe luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy tuôn.

 

THẦY cho ông Nguyễn Trung Hậu tự Thuần Ðức

Thuần phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
Ðức hóa thường lao mạc vị danh.
Hậu thế lưu truyền gia pháp quí,
Giáo dân bất lậu, tán thời manh.

Thi

Ðã có căn phần dựa cảnh Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi,
Ðêm tối lần ra gặp ánh đèn.

Ðức Chí Tôn (24-6-1926)

 

Thi cho Thanh Thủy (Cao Hoài Sang)

Bước đời chìm nổi bấy nhiêu niên,
Tâm chí ghe phen dập lửa phiền.
Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.
Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,
Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.
Nín nẩm chờ ngày tiền quả sạch,
Trau giồi đạo hạnh hưởng ân Thiên.

Diêu Trì Nương Nương (3-7-1927)

 

THẦY cho thi ông Ðoàn Văn Bản

Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.

 

THẦY cho thi ông Lê Văn Trung

Ðã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm xích dẫn lên đường.
Ðạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sao ra vạn dặm trường.

Thăng

 


 

Q.1-34. Ngày 13-02-1926 ( âl. 01-01-Bính Dần) giờ Tý: Ðức Chí Tôn giáng dạy về cơ Phổ hóa.

 

Khuya mùng 1 Tết năm Bính Dần (13-2-1926), giờ Tý, tái cầu Ðức Thượng Ðế giáng dạy rằng:

Ðức, Hậu tập cơ sau theo mấy anh mà độ người nghe và tuân theo.

Ấy là lời Thánh giáo và ngày kỷ niệm khai Ðạo Cao Ðài về cơ Phổ hóa, ngày mùng 1 Tết năm Bính Dần giờ Tý vậy (13-2-1926).

 


 

Q.1-35. Ngày 21-02-1926 (âl. 09-01-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy đạo và bài thi kỷ niệm chỉ tên 12 người Môn Ðệ đầu tiên.

 

Qua đến ngày mùng 9 tháng Giêng (21-2-1926), nhằm ngày Vía Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Quan Phủ Vương Quang Kỳ có thiết Ðàn riêng tại nhà ông số 80 đường Lagrandière (bây giờ là đường Gia Long). Ðêm ấy có mời Chư Nhu và mấy vị Ðạo Hữu hầu Ðàn, Thượng Ðế giáng cơ dạy như vầy:

Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắt đến cùng Ta.

Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Ðạo Thầy.

Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gỗ nghe. Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.

Khi ấy, Quan Phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng Ðế lấy tên mấy người đệ tử mà cho một bài thi kỷ niệm.

Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu, Ðức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.

Thượng Ðế lại phán: "Hườn, Minh, Mân sau sẽ rõ..."

Nguyên 12 chữ lớn trong ba câu trên là tên của 12 vị Môn Ðệ trước hết của Thượng Ðế. Có hai tên Sang, Thầy điểm chung một tên. Còn ba chữ lớn câu chót là tên ba vị Hầu Ðàn.

 


 

Q.1-36. Khổ tâm Hành Ðạo của Ðức Cao Thượng Phẩm.

 

KHỔ TÂM HÀNH ÐẠO CỦA ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

Kể từ Rằm tháng 10 Bính Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng Ðinh Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén) là ba tháng, nhưng tới tháng hai năm Ðinh Mão, đã quá hạn kỳ một tháng mà Hội Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn ông Huề Thượng Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài.

Vì sự đòi chùa ấy nên Ðức Lý Giáo Tông giáng dạy quí ông Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng đi kiếm đất mua đặng dời chùa.

Ðức Lý dạy: " Mai này chư Hiền Hữu lên đường trên gọi là đường dây thép (là đường từ Mít Một chạy tới cửa Hòa Viện bây giờ) nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền Hữu có thấy đặng chăng cho biết. Lão đã nói rằng: Mỗi sự chi chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết".

Qua ngày sau, quí ông đi tìm đất. ông Thái Thơ Thanh cho mượn một chiếc xe, Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh cho mượn một chiếc.

Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng ngồi trên hai chiếc xe hơi thì có Ðức Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm, Anh cả Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, Anh Thái Thơ Thanh, Anh Thượng Tương Thanh, Anh Ngọc Trang Thanh.

Khi xe chạy tới Cửa Số Hai hồi trước còn rừng rậm cạnh góc ngã ba có cây vừng, Ðức Cao Thượng Phẩm ngó thấy nơi cây vừng có tấm bảng treo đề tên Cao Văn Ðiện. Ông nầy là bạn học của Ðức Thượng Phẩm hồi thuở nhỏ.

Trong lúc bối rối kiếm đất không được, bất ngờ thấy tên bạn mình đứng tên trên miếng đất nầy, nên Ðức Cao Thượng Phẩm nói với Hội Thánh rằng: Ðể tôi đi tìm ông Cao Văn Ðiện nhờ bạn tôi điềm chỉ giùm chủ đất nầy. Và cũng nhờ ông Cao Văn Ðiện điềm chỉ mới biết ông chủ đất nầy là ông Kiểm lâm người Pháp tên Aspar.

Khi kiếm được đất rồi, tối lại quí ông cầu Ðức Lý về dạy coi Hội Thánh đi kiếm đất như vậy có trúng không. Ðức Lý giáng dạy như vầy:

"Lão khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa tưởng chư Hiền Hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Ðịa. Sâu hơn ba trăm thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như 6 con Rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu; một đầu ra Giếng Mạch Ao Hồ; hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia. Người Lang Sa chỉ đòi có hai mươi lăm ngàn đồng".

Khi phá đám rừng nầy thì Ðàn Thổ (*1) xuống cả ngàn người để phá rừng, làm cho ông Chánh Tham Biện người Pháp nghi ngờ mời Ðức Cao Thượng Phẩm ra Tòa Bố. Ông hỏi Thượng Phẩm chớ làm cái gì mà đông đảo như vậy. Ðức Thượng Phẩm trả lời rằng: Tôi mua miếng đất đó đặng trồng cao su. Ông Tham Biện hỏi trồng mấy mẫu? Ðức Thượng Phẩm trả lời: Tôi trồng hết sở đất tôi mua phá tới đâu tôi trồng tới đó, nên ngày nay trong Nội Ô có cây cao su là do nơi đó.

Khổ tâm hơn hết là Ðức Thượng Phẩm bị người Pháp cật vấn đủ điều cho đến đổi tới giờ cúng cũng không vô Chánh Ðiện cúng được, buộc phải rào song ly ngăn lại. Trong Chánh Ðiện chỉ có một mình ông Lễ Sanh Thượng Xường Thanh cúng mà thôi, còn ở ngoài thì vài ba ông thợ mộc quì trên dăm bào lạy vô Bửu Ðiện; vì lúc nầy Chánh Phủ Pháp nghi ngờ bắt Ðạo và bó buộc không cho tụ họp đông , như vậy mà ông Tham Biện người Pháp còn mời Ðức Thượng Phẩm ra Tòa Bố ngày một.

 

Phụ ghi: (*1) Chỉ người Cam Bốt lúc bấy giờ.

 

GIAI ÐOẠN DI CỐT PHẬT TỔ

Cốt Phật Tổ vì nặng quá, bởi con ngựa Kiền Trắc của Ðức Phật Tổ cỡi lớn và dài nên Ðức Thượng Phẩm phải kết hai chiếc xe bò lại để thỉnh cốt Phật lên.

Trong lúc sửa soạn thỉnh cốt Phật thì ông Chánh Tham Biện người Pháp cho một toán lính mặc đồ thâm núp dưới đường mương ngoài chong súng lên đặng bắn Ðức Thượng Phẩm. Tới chừng thấy rõ là thỉnh cốt Phật mới rút lui. Hội Thánh từ từ di cốt Phật về đất mới mua.

Ðức Thượng Phẩm đứng trên xe bò vịn Ðức Phật Tổ, thấy nghiêng bên nào thì hô lên để sửa lại ngay; đi từ 6 giờ chiều tới 2 giờ khuya mới đến Thánh Ðịa (ngay cửa Hòa Viện bây giờ). Trước cửa Hòa Viện có cây vên vên, đến đây di cốt Phật Tổ vào không được vì bị một cái đường mương lớn quá; Ðức Thượng Phẩm phải lập kế kiếm ván đặng lót xe vô mới được. Khi xe qua đường mương rồi thì tạm để cốt Phật Tổ nơi đây, vì Ðức Thượng Phẩm mệt đuối, nhào xuống đống lá khô trong rừng nằm nghỉ; tất cả Chức Sắc cũng nằm xuống đó nghỉ theo.

Xin nhắc lại khi mua đất nầy thì chưa tạo được cái nhà nào hết, chỉ có cái nhà bò của ông Aspar bán đất để lại (dãy nhà chỗ chợ Từ Bi, gần nhà Ðức Quyền Giáo Tông bây giờ) nhờ đó mà tạm dùng nhà bò nầy để làm trù phòng cho công quả ăn phá rừng, nên khi Ðức Cao Thượng Phẩm thỉnh cốt Phật về tới đây mệt lả thì Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu đã chuẩn bị nấu cháo sẵn rồi. Nữ phái khiêng cháo và nước qua cụm rừng để ăn cho đỡ dạ.

Nền Phật Tổ đã được Ðức Thượng Phẩm an vị giữa hai cụm rừng gần cây ba nhánh.

Lúc bấy giờ, Ðạo phải trải qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc Ðạo nhứt là ông Cao Quỳnh Cư đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài (thời Pháp thuộc).

Ðức Cao Thượng Phẩm vâng lịnh Ðức Chí Tôn phá rừng xong, xây cất Tòa Thánh tạm, Hậu Ðiện, Ðông Lang, Tây Lang, Trường Học, Trù Phòng (đều bằng tranh) và đào giếng (mà hiện giờ còn di tích mấy cái giếng gần Tòa Nội Chánh đó).

Thảm thay!

Trời đương thanh,
Biển đương lặng,
Gió đương êm.

Bỗng đâu đất bằng sóng dậy, nước lã khuấy nên hồ đem đến gieo ác cảm cho Ðức Cao Thượng Phẩm, làm cho Ðức Ngài phải về Thảo Xá Hiền Cung. Ðức Ngài quá buồn, vì vâng lịnh Ðức Chí Tôn về Tây Ninh mở Ðạo, Ngài phải bỏ sở làm chưa hưu trí, con còn đang du học tại Paris.

Nhớ lại lúc bỏ sở làm thì anh em bạn nói rằng: Thầy Tư, sao Thầy quá tin dị đoan; con còn đang học bên Pháp mà Thầy đi như vậy thì việc học của con phải dở dang sao?

Nhưng Ngài nhứt quyết nghe lời Ðức Chí Tôn dạy mà thôi, nên Ngài thu xếp gia đình, bỏ sở làm về Tây Ninh lo Ðạo, chịu biết bao nhiêu cảnh gian nguy vì xưa đến đây đầy những bụi cây, thú dữ phải ăn vác nằm sương mới tạo thành Tòa Thánh tạm và xây cất đủ mọi nơi thành khoảnh thì lại bị thiên hạ đuổi đi!!!

Ðức Ngài về Thảo Xá, vì buồn rầu, vì xấu hổ với anh em bạn, mặt mũi nào trở về sở làm được nữa, thế nên Ngài thất chí ước nguyện của Ngài không thành.

Vì khi ra đi Ngài quyết chí đem thân này làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn sai khiến, nhưng cơ đời rất nên cay nghiệt, xảy đến nhiều nỗi tang thương cho gia đình Ngài. Ðức Ngài quá đau khổ có làm một bài thi tự thán như vầy:

Thi

Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình.
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng,
Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.
Thương Ðạo mến Thầy xin sớm liệu,
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

THẤT NƯƠNG

(cho Ðức Thượng Phẩm một bài thi như dưới đây)

Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,
Nhờ ai an vị lại an nơi.
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời.
Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Ðến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời.

 


 

Q.1-37. Năm Mậu Thìn (1928): Ðức Chí Tôn dạy Phép Tuyệt Thực trị bệnh cho Ðức Cao Thượng Phẩm.

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

Năm Mậu Thìn (1928)

THẦY

Các con,

Hiếu! Con ra kêu Nhiều.

Cư! Con có hiểu chưa con, Cư con giải bày Thánh ngôn trước phải nếu con không rét thì có yếu như vậy đâu.

Ừ, con rán nhịn cơm chừng ba bốn bữa nữa đặng Thầy dùng huyền diệu pháp mà trị bịnh cho con thiệt mạnh, lần nầy từ đây mới dứt bịnh (1) miễn đừng ăn món chi nó phạt tỳ thôi.

Thầy dạy nói phép tuyệt thực.

Cơ khí của châu thân, nhờ tỳ bổ vật chất thực, còn phổi bổ huyền vi thực, hễ tỳ hưởng nhiều vật chất thực thì còn ít phần cho phổi hưởng huyền vi vật thực, thì phần tinh ba của vật chất mà châu thân hưởng đặng gìn giữ sự sống đều định có phân tách.

Ít cũng không đặng, trong hình vật chất thực có tinh ba đặng bao nhiêu, còn lại bao nhiêu huyền vi vật thực cho đủ số đặng hưởng của châu thân con người có chất Thánh gìn giữ thường ngày bền vững đặng.

Thầy trước khi ngưng phận sự, thì Thầy dạy phổi phải thọ vật thực hình chất. Thầy lại ngưng không cho nó hao mòn nữa, nên ngày nào tuyệt thực thì ngũ tạng lục phủ giữ nguyên mỡ thịt nó. Hễ buổi tuyệt thực mà xác thân ốm phải chịu ốm, thì như mập cũng tự nhiên mập; ấy là đổi cơ thể hình chất tức là phàm chất ra Thánh chất.

 

(1) Ðức Cao Thượng Phẩm đau bao tử, Thầy dùng huyền diệu trị bịnh.


 

THẦY

Các con,

Thơ, con dìu dắt em Cư của con xuống nhà con đặng dưỡng bịnh, tìm chánh y phục dược cho nó, chẳng đặng rước danh y khác sắc da với các con nghe.

Bịnh nó là tâm bịnh, nhờ các con lai vãng, khuyên lơn, nhiều hơn là nhờ phương chước, nhọc cũng rán làm trọn theo nhơn tình cho được trọn niềm Ðạo Hữu với nhau.

Thầy phú thác việc ấy cho con phải gắng dạ, Hiệp Thiên Ðài các con phải trải qua một lối buồn nữa, nhưng gắng tưởng Thầy và thương yêu nhau thì qua khỏi lối khó khăn đặng, nên nhớ nghe.

Trung! Trang! Hồn Ðạo chưa qui tựu, xác Ðạo còn phân vân khá lấy đức tánh mà điều đình việc Ðạo trong lúc nầy.

Ngưng sự phổ độ lại mà chờ cho lễ nhạc bàn tính sắp đặt cho yên.

Thầy cũng phải khổ tâm mà chịu.


 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

THẦY

Các con,

Cười ... Cư! Con có sợ không con, cười ....

Phải con có bệnh vậy đặng trừ bớt thử của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị cho mỗi đứa.

Than ôi! Trong phần đông của các con nếu đặng mảy mún hồng phước như con vậy thì Thầy chưa phải thương tâm đổ lụy, chúng nó có hiểu thấu đâu.

Nhiều đứa đã bị Thái Bạch dĩ sổ bôi tên nơi chốn Thiên Thơ mà Thầy không phương chi giải cứu cho đặng; phải chi Thầy không sợ mất phép công bình thưởng phạt thiêng liêng dầu cho chúng nó phải chết đi nữa Thầy cũng mừng thầm, song chẳng đặng vậy, con coi cái bịnh con đó, nó ra giá quí báu cho con dường nào.

Thầy thấy con bịnh phổi và bao tử, nên cho huyền diệu pháp cho con khỏi ăn đôi lúc cho thiệt mạnh. Hai cơ khí ấy vốn là hình chất nên khó lấy huyền diệu mà trị nó theo lẽ thường. Thầy buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng hườn nguyên con hiểu.

Ðọc lại con Hiếu.

Cư, Tắc! Hai con muốn Thầy giải phép tiếp dưỡng huyền diệu ấy thế nào chăng?

Cười ... giải nghĩa biết chăng?

Không ăn mà sống ... hỏi? Con ngu lắm há, nghe. Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng, mà không khí ấy chứa đầy vật chất tiếp dưỡng "Matières Nutritives" của xác trần, vì nhờ nó biến hóa chúng sanh đặng. Thầy nói chúng sanh là nói toàn cả vật loại hữu sanh, nghĩa là vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, vật loại hữu sanh, thú cầm hữu sanh, nhơn kiếp hữu sanh, hiểu à.

Vật chất phải tiêu, mà khí phách vẫn còn, tỷ như đá núi có thể xay tiêu ra bột làm ciment mà khí phách đá cũng còn giữ tánh cứng của nó; trộn nước cho đóng khối lại thì nó trở lại hườn đá như thường mà cái mùi đá cũng giữ mùi đá. Thảo mộc dầu phải chặt rả ra thì khí phách cũng vậy. Con tưởng xác chôn rồi trong xác ấy cho hườn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng không khí chăng?

Ðọc con Hiếu.

Không khí "Air respiratoire" chứa đầy khí phách tiếp dưỡng mà nuôi nấng lại chúng sanh, nếu các con thấy đặng thì chẳng khác nào ly nước lạnh mà đổ đường vào trong đó có màu lợn cợn. Sự nuôi nấng chúng sanh thì chẳng chi hơn là nước đường, tuy vân không thấy đường mà uống rõ ràng có ra mùi ngọt.

Ðọc con Hiếu.

Cái khí con hớp hằng ngày ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy, Thầy chỉ có sửa cơ khí phàm các con, nhứt là bao tử cho nó có huyền diệu pháp mà tiếp cho đặng cái khí phách mà làm vật thực nuôi nấng lấy mình; vì vậy nhiều đứa phàm xác vẫn còn mà đắc Ðạo tại thế, tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào.

Ðọc con Hiếu.

Coi rồi kiếm hiểu, nói lại cho Thầy nghe rồi Thầy mới dạy nữa.

 

Chú Giải: Ðức Cao Thượng Phẩm bị bịnh, Thầy dùng huyền diệu pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm không ăn cơm mà no cũng như ăn cơm vậy, nhờ hớp không khí sớm mai lúc mặt trời vừa mọc (lên lối còn thấp).

 


 

Q.1-38. Ngày 04-05-1928 (âl. 15-03-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy "Thầy phán lịnh cho Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải hiệp nghe à.".

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

Rằm tháng 3 năm Mậu Thìn (4-5-1928)

THẦY

Các con,

Cười.... Thầy tưởng khi các con còn cứng lòng hơn nữa chớ... Cười....

Các con chỉ biết rằng có xác thịt trần của các con đó là hữu hình, biết có mình các con mà thôi, chớ còn Lão già nầy thì chẳng cần chi kể đến há?

Nầy, Thầy nói cho các con biết rằng: Chẳng giờ phút nào mà mắt Thầy không chăm nom gìn giữ các con, Thầy đợi xem cho rõ coi cách các con lập vị mình dường nào. Thầy lại nghĩ mà cười thầm hoài. Mỗi phen Thầy thử thách các con thì các con rối rắm, Thầy chẳng biết tới chừng nào các con mới đoạt đặng Thánh đức của Thầy dành để cho các con. Trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Thầy lấy làm hổ thẹn, oan gia là oan gia lắm hử!

Từ ngày các con nghịch lẫn nhau thì chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chẳng còn ở cùng các con nữa, các con có biết à?

Trung! Ngày mai nầy chạy tờ cho cả mấy em con biết rằng: Thầy phán lịnh cho Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải hiệp nghe à.

Tắc! Con phải ký tên tờ Châu Tri với anh con nghe à.

Cư! Con phải sửa soạn mình hầu chịu một phen khảo hạch nữa, rán lấy gương ấy mà răn nghe.

Hai con Trung, Cư phải hiệp ý đặng lo Ðạo, Thầy dặn một phen nữa, chi chi các con cũng nhớ khi các con ở nơi lòng Thầy.

Hậu! Cho cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài hay mạng lịnh Thầy.

Thầy Thăng.

 


 

Q.1-39. Ngày 23-05-1928 (âl. 06-04-Mậu Thìn): Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai dạy "... khuyên một điều là khi minh thệ Chức Sắc đừng lòng tư vị...".

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

Ngày 06 tháng 04 năm Mậu Thìn (dl. 23-05-1928)

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI

Thiếp chào chư Ðạo Hữu và Ðạo Muội Hương Hiếu.

Chí Tôn không đến là có ý cho chư Ðạo Hữu điều đình thử coi có làm kham phận sự cùng chăng?

Trước khác, nay thì khác, đã mang Thiên mạng nơi mình phải so quyền liệu sức mà hành chánh, cả chúng sanh đương lao nhao lố nhố trông cậy nơi chư Hiền Hữu, phải làm sao cho xứng phận thì làm.

Thiếp xin khuyên một điều là khi minh thệ Chức Sắc đừng lòng tư vị; những vị chẳng có minh thệ khá tỷ như Chức Sắc Hàm mà thôi, chẳng nên giao Pháp Chánh của Ðạo ấy là cơ thể để trừ tuyệt sự rối loạn của Ðạo. Thiếp xin nên nghe lời Thiếp.

Bảo Ðạo Chơn Quân! Thiếp tưởng Bí Pháp của Cựu Luật vẫn yêm ẩn lắm điều khó minh đoán cho đặng, song sự chơn thật quả có hẳn trong ấy.

Vậy cũng nên trích lục đặng phổ thông cho người đặng phòng ngày sau minh lý ra đặng dễ dàng, Thiếp tưởng là điều rất hữu ích đó vậy.

Thiếp thương Ðạo tâm của chư Hiền Hữu rất nên mỹ miều đẹp đẽ, buổi thử thất nầy mới đến đây ngày nay đó.

Thiếp xin kiếu.

 


 

Q.1-40. Ngày 06-07-1928 (âl. 19-05-Mậu Thìn) Ðức Chí Tôn dạy "... Con hiểu vì cớ nào mà nền Ðạo loạn pháp chăng?".

 

Bà Rịa, Le 6 Juillet 1928 (19-5-Mậu Thìn)

THẦY

Các con, cười ....

Thầy không kêu Trang và Lịch đến đủ mặt, song chúng nó một ngày kia sẽ hiểu Thánh ý Thầy. Vậy các con cũng chẳng cần nói lại với chúng nó mà làm gì nghe.

Các con nghe Thầy, Thầy chẳng biết vì cớ nào các con không để trí khôn ngoan mà xét đoán cho minh lý Ðạo của Thầy đã giao cho các con. Thầy hỏi từ khi tạo Thiên lập Ðịa các con có thấy những vật loại hồn tính nào Thầy đã sanh ra trên mặt địa cầu nầy mà không trật tự phẩm vị chưa vậy hử?

Trung bạch ....

Trung! Nếu chúng nó không vậy Thầy đâu cậy các con dạy dỗ há? Trung con ôi! Thầy đã chẳng có xác phàm mà dìu dắt các con, chỉ nhờ ngọn cơ bút hèn hạ nầy mà dạy dỗ các con, hầu làm cho tâm phàm tánh tục các con giảm bớt đặng chen nhét vào đó mảy mún Thánh đức của Thầy trông cậy cho nên phẩm hạnh, dạy lại cả chúng sanh mà các con xét mình thử coi, Thầy đã đặng thỏa nguyện cùng chăng?

Trung! Thầy nói rõ chẳng phải Thầy để lời trách cứ chi con, lòng con thế nào Thầy thấy rõ, biết bao phen Thầy nghe con kêu réo than thở cùng Thầy, biết bao phen Thầy thấy con khổ cực vì Thầy, song con chẳng đủ đức trông cậy Thầy, con hiểu vì cớ nào mà nền Ðạo loạn pháp chăng?

Trung bạch ....

Không con, vì tại con chưa biết phận làm anh, nên mới ra đến đổi ấy. Thầy hỏi sao con không chiêm nghiệm Thánh đức của Thái Bạch? Sao con không xét nét cho cùng lý lời vàng tiếng ngọc của một vị Giáo Tông Thiêng Liêng mà noi gương theo đó.

Nhiều khi Thầy thấy con vì nhẹ tánh mà nghe lắm lời thị phi làm đau đớn nhiều đứa vô tội cùng Thầy. Sự lầm lạc của các con lắm thường tình, Thầy không hề bắt tội, nhưng mà sự mê muội Thầy thấy rất đau lòng. Thầy hằng than thở với con rằng: Cả nhơn sanh còn nhiều ngu muội sở cậy con nâng đỡ, dắt dìu mà con lại hờn trách, chớ chẳng dạ thương yêu thì con có khác chi Chiêu hồi buổi trước.

Thầy lại thấy con đôi phen giận lẩy phòng toan trao gánh Ðạo cho người; Thầy hỏi vậy chớ con còn nhớ lời Thầy dặn con buổi trước chăng?

Trung bạch ....

Không, Thầy hỏi con còn nhớ lời Thầy dặn riêng con buổi trước chăng?

Trung bạch ....

Phải, con há, chớ chi Thầy liệu trao nền Ðạo cho ai thì Thầy chẳng hề nói với con lời ấy; Thầy đã mượn con mà con trao phận sự lại cho kẻ khác, vậy con có đắc tội cùng Thầy chăng hử?

Trung bạch ....

Thầy chưa hề bắt tội con, song chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đã hiểu rõ rằng: Thầy trao nơi tay con một quyền hành thưởng phạt, cũng như Thầy trao cho Tắc một cây cân công bình thiêng liêng nơi cõi tục nầy; mà cả hai, một đứa bạc nhược, một đứa bơ thờ. Thầy tưởng chẳng cần nói các con cũng hiểu rằng: Các Ðấng ấy bất bình lắm đó vậy.

Các con đã mang mạng lịnh Thầy, thì làm thế nào Thầy không hổ thẹn; Thầy dặn các con một điều phải hằng nhớ rằng các con thay mặt cho Thầy tức là Thầy. Ngày nào Thầy lấy phận sự lại thì là mới hết Thầy nữa. Cái xác thịt các con cũng nên kể rằng: Chẳng phải của các con nữa.

Thầy đã nói trước rằng: Cái xe Thầy đẩy đi đến đâu thì hồng ân của Thầy rưới khắp đến đó. Thầy chỉ cậy các con kêu rước những kẻ hữu duyên đến chung hưởng cùng các con thôi.

Khốn cho những đứa ngu muội không lo mà tiếp rước các con, mà cũng khốn cho các con, nếu các con tham lam giành phần hơn của kẻ khác, con gắng hiểu Trung nghe.

Thơ! Con cứ giữ giận lẩy vậy hoài, cười.... Chẳng phải Ðạo là vậy con ôi. Cũng vì.... bạc nhược hay nghe mà không biết binh vực con mới ra vậy. Từ đây Thầy dặn ai thương ghét mặc ai con cứ thương Ðạo là đủ.

Cư! Con cũng vậy nữa, con phải nhớ hằng ngày lời Thầy và hạnh khiêm cung của Thầy mà giải lòng phiền nghe, chẳng cần thương ghét, chỉ biết phận mình, làm thế nào cho hồn Ðạo thêm cao, ngày kia chúng sanh sẽ đổ lụy rơi châu mà xét nét sự lầm lạc của thế tình. (Thầy nói tiên tri Ðức Thượng Phẩm qui Tiên vị).

Trung, Thơ! Hai con nên tin rằng Cư vô tội mà khuyên dỗ lấy em kẻo tội nghiệp.

Trung bạch ....

Ừ, nhưng mà Liêm, Thầy phải bỏ phế cho Ca thay thế cho nó, nhưng hạnh đức chẳng hoàn toàn vì lo hám vọng, Thái Bạch chưa định, nghe Thầy. Con nếu biết thương nó cũng nên gần gũi dạy dỗ cho nó đặng đôi chút đạo đức của con rồi sau sẽ liệu, bằng chẳng vậy Thầy buộc Tương ngồi địa vị ấy cho tới buổi Thầy biểu con về, con khá nhớ. Con biểu Vintrebert đến ngày mai nầy sẵn có hai anh con và hai đứa nhỏ....

Tắc! Con cứ vậy hoài há? Chẳng một điều nào mà Thầy giao cho con mà con làm trúng hết.

Trung bạch ....

Phải, con còn làm hơi không biết nữa há?

Thăng

 


 

Q.1-41. Tình trạng Ðức Cao Thượng Phẩm.

 

TÌNH TRẠNG ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

Ðức Cao Thượng Phẩm từ ngày về Thảo Xá Hiền Cung xem Ngài hình thể hao mòn, sức yếu thân gầy, sắc diện âu sầu buồn bã.

Sự nhận thức có lẽ Ngài thọ bịnh thất chí, vì hành Ðạo không được y theo sở nguyện trong nền Ðạo buổi sơ khai lo truyền giáo phổ độ nhơn sanh, mà Ngài lại an ổn tại tư gia, nên Ngài bực tức, vì Ðạo vì Thầy mà bị họ ngăn trở bước đường hành Ðạo.

Thiết tưởng những người có đủ đức tin nơi Chí Tôn thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được, huống chi Ðức Thượng Phẩm là Môn Ðệ tin tưởng Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu buổi đầu tiên.

Khi Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo, giáng huyền diệu cơ bút thâu Môn Ðệ dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà của Ngài, nên lòng thành kính Ðạo thật là đầy đủ. Các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Ðạo, thì Ðức Thượng Phẩm cùng Ðức Hộ Pháp phò loan, hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều hơn hết.

Ðức Thượng Phẩm là người cương quyết thi hành trọn Ðạo phế Ðời, thu xếp gia đình nghỉ làm việc Cò Mi, không màng danh lợi, trọn tin theo lời Thánh giáo của Chí Tôn về ở chùa Gò Kén thường xuyên hành Ðạo. Khi dời về Tòa Thánh thì Ngài cũng trọn tâm lo xây dựng cơ nghiệp Ðạo.

Ðến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc lòng lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh, lương y khó phương điều trị cho lành mạnh. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài lo cuộc lễ tiếp rước Ðức Thượng Phẩm về Tòa Thánh và tạo lập Tịnh Thất cho Thượng Phẩm nhập tịnh.

Cả Chức Sắc Hội Thánh đồng tâm tuân lịnh Ðức Chí Tôn tức cấp lo tạo Tịnh Thất tại nơi cụm rừng (chỗ Báo Ân Từ hiện nay).

 

Ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928)

Bảy giờ sáng một đoàn xe hơi Chức Sắc Ðại Thiên Phong Hiệp Thiên, Cửu Trùng đến Thảo Xá Hiền Cung rước Ðức Thượng Phẩm thì Ngài cũng vui lòng lên xe về Tòa Thánh nhập Tịnh Thất. Hội Thánh có chọn Chức Sắc phụng sự mọi việc thường thức cho Ngài.

Ðức Thượng Phẩm nhập Tịnh Thất một thời gian, bịnh tình cũng chưa thuyên giảm, hằng ngày kém ăn thiếu ngủ, Thánh thể xem đã gầy mòn.

 

Ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928)

Ngài tỏ với người bạn thân là Bà Giáo Sư Hương Hiếu lo sắp đặt 6 giờ chiều trở về Thảo Xá, Ngài không cho Chức Sắc hay trước.

6 giờ chiều, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa lót nệm để Ngài nằm, đi theo xe hộ vệ chỉ có người bạn thân của Ngài và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, đưa Ngài về Thảo Xá.

7 giờ rưỡi, tới nơi đỡ vào phòng nghỉ ngơi, xem được khỏe như lúc mới lên xe. Từ đây, ở yên nơi Thảo Xá.

 


 

Q.1-42. Ngày 20-01-1929 Diêu Trì Kim Mẫu dạy đạo.

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm
Thảo Xá Hiền Cung

Tây Ninh, Le 20 Janvier 1929 (Năm Kỷ Tỵ)

DIÊU TRÌ KIM MẪU

Thiếp chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội bình thân.

Thiếp vì cảm tình xưa mà phải chính mình đến cùng Cửu Nương cho hiểu mọi điều.

Diêu Trì Cung đã thượng sớ cho Chí Tôn và Bảo Ðạo Chơn Quân kiện nơi Ngọc Hư Cung. Thiếp còn nhớ khi đến dìu dắt chư Ðạo Hữu vào đường Ðạo phải mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, thì Thiếp đã nói, bởi vì tình riêng của mấy Ðấng Chơn Quân đến lo cứu độ chớ không phận sự chi trong lúc này và cũng bởi lịnh Chí Tôn sai khiến, chắc rằng nếu không phải Thiếp mở Ðạo thì không phương thành Ðạo cho đặng.

Khi Thiếp mở Ðạo thì độ ai? Có phải là cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, các Chơn Quân thiệt tình của Thiếp là ai chăng?

 

Tái Cầu

Cười .... Ôi cũng bởi nơi Thiếp mà chư Hiền Hữu phải chịu hành hà phàm xác, khổ não muôn phần.

Chí Tôn có hứa khi ấy với Thiếp rằng: Thế nào cũng nâng đỡ cho chư Hiền Hữu, chẳng cho ai ỷ lộng quyền mà lấn hiếp; Thiếp mới đến khai Ðạo cho chúng sanh đặng Phụ Mẫu song toàn. Nào dè vì lòng đại từ đại bi quá thương nhơn loại, đành để cho chư Hiền Hữu chịu hành hà đến đổi Thiếp đã dâng sớ cầu xin Chí Tôn lượng xét, còn Bảo Ðạo kiện cùng Ngọc Hư Cung, những kẻ vô Ðạo của C.T.Ð.

Thiếp đã thấy chán chường, khởi trị hành hà Lý Thái Bạch muốn lo hòa đặng Ðạo cho thành, nên đã nhìn nhận tội lỗi nhiều người, nhưng vì công dày nên không đành để Thiên Ðiều định án, buộc phải nạp những kẻ ấy ra Tòa Tam Giáo. Thầy cũng nghĩ Thiếp nên.... và Lý Thái Bạch cũng đành nhận quyền hành của Hiệp Thiên Ðài từ đây không ai chối nữa cho đặng.

Thăng

 


 

Q.1-43. Ngày 10-04-1929 ( âl. 01-03-Kỷ Tỵ): Ðức Thượng Phẩm Ðăng Tiên.

 

ÐỨC THƯỢNG PHẨM ÐĂNG TIÊN

Ngày 01 tháng 03 Kỷ Tỵ (1929)

11 giờ trưa, Ðức Thượng Phẩm cho mời Ðức Hộ Pháp, cùng ông Bảo Văn Pháp Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh.

Ðức Thượng Phẩm nhìn Ðức Hộ Pháp trối rằng: Nay Qua về chầu Ðức Chí Tôn, em ở lại hiệp với Chức Sắc chung lo nền Ðạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.

Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn. Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt, kế day qua nói với bạn thân của Ngài căn dặn để trọn tâm lo tròn phận sự; nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn êm ái, gương mặt cũng như người đương ngủ. Có một điều phi thường là lời trối Ngài nói có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Cả Chức Sắc có mặt đều cảm động ngùi ngùi thương tiếc.

Khi Ngài dứt hơi thì đỡ ngồi dậy thúc xác ngồi kiết tường trước mặt lập bàn hương án chưng bông hoa trà quả. Ðức Hộ Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng Liên Ðài hình Bát Quái; thời Tý 12 giờ đại liệm, rồi thành phục tế lễ theo nghi tiết. Hội Thánh thông tri cho toàn Ðạo các tỉnh đều hay đặng hành lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng Phẩm được tiêu diêu nơi miền Tiên cảnh.

Quàn tại Thảo Xá 3 ngày, Chức Sắc và Ðạo Hữu nam nữ điếu tế rất đông . Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài cầu cơ bút, Ðức Thượng Phẩm giáng cơ tỏ vẻ vui mừng, được về bái mạng Ðức Chí Tôn cùng Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung, đều ban ơn công nghiệp buổi khai Ðạo tròn sứ mạng, Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt:

Thi

Cao thanh miệng thế mặc chê khen,
Thượng trí màng chi tiếng thấp hèn.
Phẩm cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.

Ngài tỏ vẻ vui mừng nay đã thoát khỏi biển trần, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống.

 

Ngày 3 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929)

Hội Thánh rước Liên Ðài về Tòa Thánh, sự sắp đặt thứ tự theo chương trình dưới đây:

1/. Tấm bảng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, kế tiếp là phướn Thượng Phẩm.

2/. Bàn Hương án để Bửu Ảnh có dàn hầu, lổ bộ và các tràng hoa.

3/. Nhạc Ta, nhạc Tây, nhạc Tiều, nhạc Thổ.

4/. Bàn đưa, phúng, vãng, trên một trăm tấm tiếp theo đồng nhi đọc kinh đưa.

5/. Thuyền Bát Nhã chở Liên Ðài tiếp sau tang gia hiếu quyến.

6/. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài: Hộ Pháp, Thượng Sanh, cùng Thập Nhị Thời Quân, kế tiếp Chức Sắc Cửu Trùng Ðài Nam Nữ và Chức Việc, Ðạo Hữu, đi đầu vào đến Ðền Thánh mà đoạn chót còn ở tại Thảo Xá, đường dài 4.000 thước.

Cuộc rước Liên Ðài rất tôn nghiêm long trọng. Khi thuyền Bát Nhã đến Tòa Thánh, di Liên Ðài vào Bửu Ðiện an vị nơi phẩm trật của Hiệp Thiên Ðài.

Ðêm mùng 3 hành lễ Ðức Chí Tôn, dâng sớ cầu nguyện Ơn Trên ban ân huệ cho chơn linh Ðức Thượng Phẩm tiêu diêu cõi thọ.

Ngày mùng 4 tháng 3 Kỷ Tỵ: Chức Sắc và toàn Ðạo các Tỉnh tế lễ phúng điếu rất đông đảo, cùng thân bằng cố hữu phúng điếu, quàn Liên Ðài tại Bửu Ðiện tế lễ cầu siêu....

Tới ngày mùng 8 tháng 3, sớm mai 8 giờ, di Liên Ðài lên thuyền Bát Nhã đưa ra Bửu Tháp. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đọc ai điếu; Cửu Trùng Ðài Ðức Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt đọc ai điếu, trạng tỏ công nghiệp hành Ðạo của Ðức Thượng Phẩm trong buổi sơ khai, đủ nghị lực tinh thần đối phó với quyền đời, nào là ngăn cấm áp chế không muốn cho mở mang căn bản nguồn cội của Ðại Ðạo nơi vùng Thánh Ðịa.

Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, thay mặt cho Nữ phái đọc ai điếu tỏ lòng mến tiếc Ngài vội đăng Tiên, Hiệp Thiên Ðài thiếu người phò loan đủ huyền diệu.

Khi đọc ai điếu xong, Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu nam nữ thành tâm kĩnh lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng Phẩm được siêu thăng Tiên cảnh. Cuộc lễ long trọng an bài.

Thợ hồ lo xây Tháp cho Ngài, có gắn cẩm thạch mạ chữ vàng nơi Bửu Tháp Bát Giác; sau lưng có khắc bài kỷ niệm để tỏ dấu cảm hoài và roi truyền hậu thế.

Sau đấy Ðức Cao Thượng Phẩm có giáng cho hai bài thi khi di Liên Ðài ra Bửu Tháp:

Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Ðài.
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một ngày.

***

Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
Cõi Thiên mừng đặng dứt giây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt,
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
Ðể mắt xanh coi nước khải hoàn.

 

Phụ ghi: Bản Chánh in là ... Liên Ðài ra Bửu Pháp, chúng tôi nghỉ là ... Liên Ðài ra Bửu Tháp đúng nghĩa hơn.

 


 

Q.1-44. Bia Kỷ Niệm Ðức Cao Sĩ Thượng Phẩm (Cao Quỳnh Cư).

 

Ngày mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929)
Ðại Ðạo - Năm thứ tư

BIA KỶ NIỆM ÐỨC CAO SĨ THƯỢNG PHẨM (Cao Quỳnh Cư)

Cao Quân người Nam Kỳ, xuất thân tại tỉnh Tây Ninh, nối dòng trâm anh, vốn nhà thi lễ, phẩm hạnh mực thước, tánh chất siêng năng, học hỏi thông minh, thành danh khi tuổi trẻ.

Lúc ở thế xử tròn Nhơn Ðạo, mãng ra vào trong bể hoạn rừng danh, hơn mười năm dư đã an phận sự.

Vừa may gặp hội Long Huê hoằng khai Ðại Ðạo khiến cho Cao Quân hiệp cùng lương hữu tập phò cơ chấp bút cầu Tiên Phật giáng đàn hầu ngâm thi vịnh phú.

May thay! Nhờ lượng từ bi xuống tay tế độ, dùng chơn thần thanh bạch, cầm bút chấp cơ, dạy chúng sanh qui chánh cải tà, khuyên tu niệm thoát vòng mạt kiếp.

Bởi Ðấng Chí Tôn giáng thế xưng danh hiệu Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Ðạo Nam Phương.

Vậy nên Cao Quân hiệp cùng chư Ðạo Hữu phụng thừa Thiên mạng khắp miền Hậu Giang phổ độ chúng sanh, nền Ðại Ðạo mới gây nên từ đó.

Ngày Rằm tháng 3 năm Bính Dần Ðức Chí Tôn phong Cao Quân là Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ.

Ðến Rằm tháng 10 năm ấy, Ðức Chí Tôn lại gia phong Cao Quân chức Thượng Phẩm trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Khôn xiết kể công lao của Cao Quân đã lo dìu dắt chúng sanh còn phải vun trồng nền Ðạo giữ tròn phận sự, mưa nắng chẳng nài, lo Ðạo không nhàm, tuyết sương chẳng quản.

Ô hô! Thiên cơ tiền định người dễ thấu đâu, những ngỡ tay rường cột sum vầy cùng bạn tác, chung lo đắp nền Ðạo giữa trời Nam, nào hay đâu số mạng bốn tuần dư dâng Thánh chỉ trở về Kinh Bạch Ngọc.

Thương thay! Tiếc thay!

Song nghĩ lại, tuy thể phách tách rời trần thế mà tinh thần còn lai láng như xưa, muôn năm theo độ rỗi chúng sanh, ngàn thuở vẫn mặc phò Ðại Ðạo.

Ôi! Nhớ tiếng thốt giọng cười khôn vùi mạch thảm nghĩ công lao sự khổ khó lấp cơn sầu.

Sanh chúng ghi tạc dạ ơn sâu, đồng một dạ khắc mấy câu kỷ niệm.

Ngày 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929)

Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài
Chư Ðạo Hữu đồng kỷ niệm.

 


 

Q.1-45. Văn Tế Tiểu Sử Cao Thượng Phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài.

 

VĂN TẾ
(Ðiệu văn Lưu Thủy)

Tiểu Sử CAO THƯỢNG PHẨM

Than ôi! Miền Ðông Á từ thời Bàn Cổ, xưa đã bao phen Ðạo Thánh dẫn nhơn sanh.

Ðất Việt Nam khai những thuở Hồng Bàng, nay mới gặp lúc thuyền linh đưa bến khổ.

Cho hay rằng: Sanh là ký, tử lại là qui, nhưng phải biết mạng tuy yểu, mà danh ấy thọ.

Nhớ Cao Thượng Phẩm xưa, tư chất ôn lương, tánh tình hòa hưỡn, nhà phiệt duyệt lưu truyền nơi thế thượng, tỉnh Tây Ninh lớn nhỏ thảy đều thương.

Trí thông minh còn roi dấu thơ hương, miền Bến Nghé trẻ già nào chẳng rõ.

Trải mấy mươi năm cùng thế sự, chí nam nhi đủ sức vẫy vùng.

Quanh theo lối trong gia, phần em trẻ nhiều lời khuyên nhủ.

Cùng lân lý hay thương người thất thủ, hằng ra tay tế độ bạc tiền.

Với mẹ cha thường để tấc lòng thành, gắng hết sức đền ơn nhủ bộ.

Ðạo Thánh mở phú một tay truyền bá, lãnh mạng Trời bố hóa khắp hoàn cầu.

Giọt sương gieo vì trăm họ khát khao, vưng Thánh chỉ rưới ban ân võ lộ, hiến thân cho Ðạo son sắc một lòng, nương bút thủ cơ tuyết sương mấy độ, đã nhiều cơn tân khổ chẳng quản đến tình nhà, dìu sanh linh từ thành thị chí thôn quê, dư mấy lúc gian truân, lần lừa theo mạch Ðạo, dẫn bầu bạn vạch đường về cội cũ.

Toàn trong sáu tỉnh để tiếng ngợi khen, khắp cả muôn dân riêng phổ độ. Trước từng trải Biên Hòa, Sài Gòn, Gia Ðịnh, mới lần qua cửa Tiểu, đã mấy buổi nắng mưa cam chịu, Ðấng Tạo Ðoan soi tỏ rõ tấm kiên trinh, rồi lại từ Mỹ Tho, Sa Ðéc, Long Hồ, mà thẳng tới Bạc Liêu, biết bao phen sương tuyết dãi dầu, ơn Thượng Phẩm đáng ghi vào nơi phế phủ.

Phần du Tiên gẫm cũng tại Thiên cơ, người khuất bóng thiếu tay rường trụ.

Nhớ những khi:

Vun trồng cội Ðạo, lấy chí trượng phu, tẩy sạch lâm tuyền, dựng Tòa Thánh tổ, lo xây nền lập Ðiện, đem hết lòng tu bổ, trót mấy thu từng trải mảnh hình hài, lo trẩy gốc ven đường, dâng trọn tấm nhiệt thành, bao nhiêu tuổi đủ đền ơn thủy thổ.

Hỡi ôi!!!

Chuông reo cảnh hạc, bóng khuất non Tây, khách giục rừng tòng, người về quê cũ, thương vì đoàn thê tử, mẹ Nam con Bắc, vợ dựa cửa trông chồng, xem càng chạnh nỗi, dầu lòng thương ôm chịu chớ biết sao!

Ngảnh lại, bóng tang du cha khuất, mẹ còn già ngồi lên khóc trẻ, nghĩ cũng lạ thường, thất chữ hiếu phải cam là vậy đó. Nhưng... nhưng cũng nghĩ rằng tình chồng vợ cũng đủ dạ yêu thương, nghĩa mẹ con cũng đã dày công báo bổ...

Bởi vậy cho nên:

Vì công lao khổ, ơn huệ thưởng ban, hứng cảnh tiêu diêu, sắc son đã rõ. Miền Cực Lạc xin hương hồn Cao Thượng Phẩm chứng lòng đơn cho các bạn tại tiền, trước Linh Tòa cả Chức Sắc Hiệp Thiên, dâng Tam Bửu ngỏ đền ơn tri ngộ.

Ngày 8-3-1929

Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài

 


 

Q.1-46. Ðiếu Cao Thượng Phẩm của Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt.

 

Ðiếu
CAO THƯỢNG PHẨM

Quý ông , Quý Bà, chư Ðạo Hữu lưỡng phái,

Ngày mùng một tháng này, vì phận sự tôi phải đi Nha Mân, qua mùng 2 tôi đi Vũng Liêm cùng Hiền Hữu Ngọc Trang Thanh.

Lúc thượng lộ lòng tôi buồn bực không kể xiết, tôi thầm hỏi, mình đi lo việc Ðạo cớ sao không được vui như mấy lần khác.

Sáu giờ rưỡi chiều tới Thánh Thất Vũng Liêm có Hiền Hữu Thái Thơ Thanh, Thượng Giảng Thanh, Thượng Lân Thanh, hành lễ vừa rồi chạy ra vừa nói:

Thượng Phẩm décédé (chết).

Nghe qua dường như sấm nổ, người dầu gan sắt dạ đồng, nghe tin cũng bắt động lòng thương xót, huống chi tôi cùng Ðức Cao Thượng Phẩm trong mấy năm dư cùng nhau keo sơn gắn chặt, thọ Thánh chỉ của Ðức Chí Tôn phổ thông Ðại Ðạo Tam Kỳ.

Nay người ly trần, cỡi hạc về quê, kẻ nhơn thế còn lo độ chúng, khiến cho tôi nghĩ nhiều bậc công hầu vương bá tài bực biết bao mà Trời không ngó cũng chác sầu tây. Nầy một Ðấng Hiền lương Ðạo đức, chừng Trời kêu đến phải mau hồi cựu vị. Ấy chỉ rõ quyền Chí Tôn rất lớn, vô cực vô đại mà thương hại cho những người vô đạo đức, không suy xét lời Thánh " Vạn ban đô thị mạng, bán điểm bất vô nhân".

Ấy chỉ rõ Thiên cơ.

Thời kỳ này Thầy lập Ðạo vô vi hồi chưa khai Ðạo nhơn sanh còn phàm tục, nên mượn xác phàm của Tín đồ đặng độ rỗi chúng sanh, nay Ðạo thành có người lập đặng chí Thánh, Thượng Phẩm là Ðạo phải trở lại Thiêng Liêng chi vị, nơi trần thế đây mà làm cho người tâm thành trí vẹn, may chút nữa phải mỏi lòng đạo đức.

Than ôi! Một năm qua rồi, nhìn Thánh Ðịa như cảnh sầu bi, xem nền Ðạo giống nhà vô chủ.

Kìa cây sầu lá ủ, nọ cỏ úa sương gieo.

Thiên ý muốn một điều là phải ăn năn sám hối, ai có lỗi mau mau tự cải, lập từ bi nhịn nhục nhau thì Ðạo mới hòa.

Thầy chỉ rõ Thiên cơ đã định, đều cũng kết cuộc tương thân, tương ái.

Tuy Thượng Phẩm về cùng Thầy là nơi phước hạnh không chi sánh kịp. Non chiều phụng gáy, động Thánh qui chầu, là nơi u nhàn Cực Lạc, song nhìn còn tại thế:

Một Từ Huyên bóng xế trăng lờ, lại gặp cuộc mẹ già ngồi khóc trẻ, nhớ con trẻ biết bao tình thấm thiết vợ hiền lương rẽ bạn giữa đường, cuộc gia thế trăm bề quạnh quẽ.

Không xiết nỗi thương.

Ôi! Chiếc nhạn kêu thu cũng là một cảnh sầu bi nơi trầm luân khổ hải này, một con thơ còn bơ vơ nơi đất khách, sau dầu bước đặng thang mây, vinh qui bái tổ, ôm cái tháp này khóc than, chớ cha hiền đã cỡi hạc qui Tiên.

Mẹ góa con côi, trăm bề eo hẹp... Ấy gương nâu sòng chập chồng trên một nền nhà đạo đức.

Ðạo lập thành, người chí Thánh đâu nỡ ngó lơ.

Hỡi ơi!!! Thương thay!!!

Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

 


 

Q.1-47. Ngày 16-04-1929 (âl. 07-03-Kỷ Tỵ - Giờ Tý): Ðức Chí Tôn dạy về việc Cao Thượng Phẩm qui vị.

 

Tòa Thánh Tây Ninh, Le 16 Avril 1929
Ngày 7 tháng 3 Kỷ Tỵ (giờ Tý)

THẦY

Các con,

Mỹ Ngọc! Kêu mấy anh con, kêu Nữ phái vì chúng nó vái ở dưới tội nghiệp.

Thầy đã nói rõ rằng: Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con nhưng mà hại thay! vì biếng nhác các con không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.

Tắc! Con có nhớ Thầy nói với các con rằng: Ðạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại Thiêng Liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa Thiên giùm đó con, lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần Ðời còn phần Ðạo cũng có đôi đứa con mới đặng cho, cười....

Con đừng phiền mà trách mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng: Chúng nó giết Thượng Phẩm nghe, vì Thiên cơ đã định các con biết chi mà hờn trách lẫn nhau.

Thơ! Con phải xây cái Tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day mặt về Ðông, giống như ngó vào Ðiện mà hầu Thầy vậy. Song, ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của Ðường Nhơn vậy nghe.

Ðừng làm như cái Tháp của Bảo Ðạo, vì hai đứa phẩm vị khác nhau, chung quanh Bát Quái, phải làm như hình có cột tại chính giữa Tháp (1) phải có lỗ cho nhựt quang giọi tới Liên Ðài.

Các con sẽ bị Thái Bạch quở phạt liệu lấy mà sửa mình, phải tùy theo lịnh dạy của nó, đặng nó giảm nộ chút ít nghe.

Thầy thăng.

 

(1) Chính giữa Tháp, trên nóc có làm mặt kiếng, nghĩa là làm cái bầu có để mặt kiếng đặng cho nhựt quang giọi tới Liên Ðài. Phải làm cái bầu cho lớn, đặng để mặt kiếng lớn mới được.

 


 

Q.1-48. Ngày 18-04-1929 (âl. 09-03-Kỷ Tỵ): Lý Giáo Tông & Ðức Chí Tôn dạy về việc Cao Thượng Phẩm qui vị.

 

Le 18 Avril 1929 (Ngày 9 tháng 3 Kỷ Tỵ)

LÝ GIÁO TÔNG

Chào chư Hiền Hữu.

Hộ Pháp! Hiền Hữu nói cùng chư Chức Sắc Cửu Trùng Ðài rằng: Lão có gặp Thượng Phẩm trước Linh Tiêu Ðiện, nhưng Người mắc lo kiến diện, nên chưa nói chi đặng với Lão hết, vậy đợi vài ba tuần nữa Lão sẽ phán định.

Hương Thanh! Hiền Muội đặng lên nghe Lão dạy mà thôi, Lão đợi, chào Hiền Muội.

Thượng-Phẩm xin tha thứ lỗi của Nữ phái nhưng Lão chẳng trọn nhận.

Lão phạt cả Chức Sắc Nữ phái một tuần cấm phòng, còn Hiền Muội thì Lão biếm quở, vì không lo dạy dỗ điều đình, song cho thăng lên Chánh Phối Sư cho có quyền sửa trị Nữ phái, nhưng mà buộc còn phải tùng lịnh Ðầu Sư.

Thấy thân thảm cảnh của Hiền Muội Hương Hiếu, Lão để lời chia buồn sớt thảm cùng Hiền Muội đó.

Cái sự hằng sống chẳng phải tại thế nầy, xin Hiền Muội khá nhớ.

Thăng

 

Tòa Thánh Tây Ninh, Le 18-04-1929 (09-03-Kỷ Tỵ)

THẦY

Các con .... Cười ....

Ậy! Cũng tại Thầy mà các con lộn xộn cùng nhau nữa há?

Cười .... Thơ! Con cũng phải mà Bính cũng phải, lỗi ấy nơi Thầy.

Bính! Chớ chi con lấy năm lần chín thì con đã trúng rồi đó, con lại sợ thằng... Sang đứng cận đường, song cũng còn xa đó con không hề gì.

Hai con muốn đem vào cây ba nhánh một chút nữa càng tốt, nhưng đã lỡ rồi cứ để vậy.

Tương! Thầy dặn con như có thế ngày mùng 8 tháng tới về Tòa Thánh Thầy dạy việc nghe.

Lịch! Con từ đây phải ở Tòa Thánh nghe.

Thơ! Phải cầu Thái Bạch, nhứt là phải có Chức Sắc Cửu Trùng Ðài cho nó phán dạy nghe con.

Thăng

 


 

Q.1-49. Ngày 21-11-1929 (âl. 22-10-Kỷ Tỵ): Ðức Chí Tôn dạy "... Cái tình thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng ra bao nả?...".

 

Thảo Xá Hiền Cung
Ngày 22 tháng 10 Kỷ Tỵ (21-11-1929)

THẦY

Các con,

Diêu! Biểu mẹ con đứng dậy, Thầy lấy làm đau đớn, Thầy thấy con chịu khổ hạnh vì Thầy.

Hiếu! Con đã nhiều phen khóc lóc, Thầy thê thảm muôn phần, song thấy Thiên cơ đã định, ngày hội hiệp con mới hiểu đặng mà đem dạ thương Thầy. Con ôi! Cái tình thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng ra bao nả? Thầy chỉ đợi các con mà các con chẳng nhớ đến, Thầy vì nóng lòng gặp nhau nên mỗi phen đặng thế Thầy tức cấp đem về, con đã rõ thấu cõi trần này biết bao khổ não đày đọa các con. Thầy đến rước các con cũng bởi thấy khổ mà cầm lòng không đặng. Vậy con Hiếu! Con gắng suy nghĩ lời Thầy mà giải lòng phiền muộn, hầu lo thủ hiếu cho tròn, phận mẹ già ác xế đầu non, con nhớ đến chồng con lo báo bổ.

Diêu! Con lo giải khuây mẹ con, chi chi cũng có Thầy giúp sức, con nên gần gũi với em con cho thường, vì nó đã cầu nguyện Thầy như vậy.

Tắc cũng vậy nghe; đừng xao lãng tình đời mới ra người quán chúng, tập nhỏ nhẹ chị em chìu bụng, nên lấy mình làm thế Ðạo anh, như gặp cơn đói khó rách lành, giữ trọn nghĩa để danh lưu hậu thế.

Diêu! Con đã đặng lời châu ngọc của Thầy gắng lo liệu với em giúp nó đặng hoàn toàn trách nhiệm.

Tắc! Con khá nhớ rằng: Ðạo đức Thầy dạy dỗ từ thử đủ sức phục người, con chỉ liệu phương hay mà định đoạt, Thầy chỉ cầu con để dạ thương yêu chúng nó kẻo tội nghiệp. Con cũng nên giảm bớt tánh cang cường, lấy lòng từ bi mà dạy dỗ nghe con.

Hiếu! Thằng An nó về Thầy không hay chi hết. Con ôi! Muốn đi thì đi, muốn về thì về Thầy không phương cản đặng, kệ kiếp nó. Thầy ban ơn cho các con.

Thăng

 


 

Q.1-50. Năm Kỷ Tỵ (1929): Cao Thượng Phẩm dạy "... Từ đây để trọn quyền cho Ðức Lý Giáo Tông định đoạt...".

 

Phò loan: Hộ Pháp - Văn Pháp

Năm Kỷ Tỵ (1929)

CAO THƯỢNG PHẨM

Em chào Anh Lớn, Tám và Nghĩa.

Em đến đây ngày nay là bạn của Anh Lớn và hai em, chớ không phải với danh Thượng Phẩm. Em lấy làm mừng cho Anh Lớn ngày nay đã hiểu rõ Thánh ý về làm chủ Tòa Thánh, chớ chi buổi trước Anh tính đặng như vậy thì nền Ðạo đâu đến chinh nghiêng và em chắc không đến đổi phạm lịnh mà đắc tội cùng Thầy.

Em xin nói rõ song Anh Lớn chớ phiền, vì mọi sự cũng do Thiên cơ tiền định. Anh có lúc nghe lời Anh Ngọc mà nghi hoặc bụng em, làm cho em bị khảo duyệt mà kỳ trung Anh đặng phải; còn Anh Ngọc (Ngọc Lịch Nguyệt) lại bị tội tình cờ mà bị quyền Thiên khiển cái phẩm vị cao trọng. Anh Ngọc không rõ giá thì mất vị đã đành nhưng nhờ công lao khai Ðạo, em không nỡ ngồi ngó cho đành, nên đương liệu phương cầu rỗi; anh cũng nên thừa dịp răn he ảnh cho biết ăn năn chừa cải. Xin Anh đừng tưởng lầm như em buổi tại thế rằng: Ðạo do nơi Anh Ngọc, muôn việc tại Thầy. Anh hỏi thằng Tám (Hộ Pháp) thì biết, em đã dâng xin Ðức Lý Giáo Tông ban luật lịnh cho Anh đủ quyền tuyển chọn Chức Sắc, vậy anh cũng nên để ý dè dặt cho lắm mới trừ diệt đặng những kẻ phá Ðạo. Em tưởng Pháp Chánh Truyền dễ thế ban hành sự cao thượng, Ðạo chỉ do nơi đó, Thầy thì từ bi đòi phen dung dưỡng, làm cho kẻ đạo đức chịu khổ hạnh trăm bề, nhưng em đã đặng lời hứa với Thầy rằng: Từ đây để trọn quyền cho Ðức Lý Giáo Tông định đoạt.

Anh Lớn cũng nên hiệp ý cùng thằng Tám đặng hành chánh y lịnh dạy của Ngài.

Anh cũng nên để trọn quyền hành sự cho Chánh Phối Sư đặng nhẹ bớt cái phần trách nhậm nặng nề đi, đặng Anh lo nhiều điều cao thượng của Ðạo hơn nữa; Anh nên đem chị về cho thuận Thánh ý Thầy và bớt lo điều gia sự.

Mấy vị Thiên Phong vô lực, nhứt là sự ngộ mà nhiều kẻ khác nữa, Ðức Lý Giáo Tông sẽ giáng cơ định đoạt. Xin Anh Lớn chớ lo, những kẻ phạm tội giải ra Tòa Tam Giáo thì Ngài cũng sẽ quyết định. Anh Ngọc lúc nầy nếu biết mình cũng nên ẩn nhẫn đợi đôi lúc nữa sẽ hay miễn đừng gây tội nữa.

Tám! Từ đây em nên nghe lời và bớt tánh nóng nảy đặng giữ phẩm hạnh nghe.

Anh Lớn hỏi chi?

Anh Cả trả lời rằng: Qua muốn lo lập Phước Thiện Ðường để nuôi mấy người đàn bà góa thủ tiết lo tu mà nghèo, lập như nhà kín (Ermite) của Gia Tô.

Thầy đã tính trước, bằng chẳng vậy phái Nữ không tu, em tưởng đẹp lòng Thầy lắm!

Anh lo đặng Học Ðường nữa càng tốt, em tưởng dường này thì bổn Ðạo ắt đặng ngày ngày nâng cao thêm nữa.

Em rất mừng.

Thăng

 


 

Q.1-51. Năm Canh Ngọ (1930): Cao Thượng Phẩm dạy "... Hễ tâm định thì Thần có ứng...".

 

Năm Canh Ngọ (1930)

CAO THƯỢNG PHẨM

Chào Anh Ba, Em Tám, Chị Tư, Cô Tư và mấy đứa nhỏ.

Cười .... Lâu ngày về người này vái hỏi sự này người kia vái hỏi sự khác, vậy Bần Ðạo nói tắt lại rằng bất kỳ là việc gì hễ tâm định thì Thần có ứng thì Thầy giáng, vậy thì lựa điều chi nên và lành thì làm còn điều chi hư và dữ thì chừa.

Sóc! Bần Ðạo nhiều phen trông mong săn sóc dạy khuyên mọi kẻ, thấy làm trúng Thánh ý thì mừng, còn đôi phen dạy một đường lại làm một ngã gây tội thêm thì buồn mà biết liệu sao cho cùng tột, đặng phần này mất phần kia thế thường phải vậy.

Cô Tư, mấy anh, mấy chị, mấy em, mấy cháu và cô đã đặng một phen Bần Ðạo giáng thế giao tình, ngày nay mới đặng hiểu nhau, thân mật cùng nhau, cái tình cảnh ấy là giềng Thiêng Liêng cột chặt nghĩa nhau, Bần Ðạo tuy sanh Thiêng Liêng chi vị, nếu kẻ thường khó mà gần đặng, mà nay Bần Ðạo vì thọ ân nhau mới tận tâm phò hộ ấy vậy Bần Ðạo kiếm phương trả nghĩa thì cả thảy cũng nên liệu bề thủ nghĩa.

Bần Ðạo ngày này năm rồi chịu đau thảm khó khăn cùng tột, cái đau đớn ấy vẫn còn trong chơn linh Bần Ðạo. Cô Tư có nhớ đêm nay là đêm Bần Ðạo nằm trên một cái xe đi chầm chậm trong nhà tịnh về hay chăng hử?

Bần Ðạo nhắn lời nhắc đến, hôm nay đã toại chí thung dung, chọc chi thêm đau dạ, Bần Ðạo có ý nói rằng mãnh thân phàm xác thịt chẳng mùi vị chi cả nên khó ngừa lòng, lấy tình thâm làm của báu.

Tám khóc chi mà (Tám Hoa khóc).

Hộ Pháp! Em đã đặng lời Thầy sở cậy, xin em lấy dạ từ bi mà cứu độ, vì trong phần phạm tội kẻ ưng thì ít, kẻ oan thì nhiều; rồi đây em sẽ thấy rõ, rán dằn lòng. Qua không ép em, tự em quan soát.

Anh Ba! Xin rán làm thế nào cho ra xứng phận kẻo tội nghiệp nghe, cái địa vị mình phải ra cao trọng mới thoát tay thế khảo, xin rán hiểu.

Thăng

 


 

Q.1-52. Lời Thuyết Minh của Ðức Hộ Pháp, ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Ngọ (1930): Lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng Phẩm.

 

LỜI THUYẾT MINH CỦA ÐỨC HỘ PHÁP
Trong dịp lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng Phẩm,
ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Ngọ (1930)

Mỗi một năm ngày Vía của Ðức Cao Thượng Phẩm, Bần Ðạo lấy làm vui thấy con cái của Chí Tôn Nam cũng vậy Nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt là cái mừng của Bần Ðạo hơn hết là ngày Vía của Ngài, cả con cái của Chí Tôn còn gìn giữ và thương yêu ấy như buổi sanh tiền kia vậy.

Sự thật, từ cổ chí kim, Bần Ðạo tưởng không có nền Tôn Giáo nào mà được hưởng một đặc ân thiêng liêng của Ðức Chí Tôn như nền Ðạo Cao Ðài; Bần Ðạo đoán lại những sứ mạng thiêng liêng của Ngài, những đặc sứ sai đến thế nầy đặng thay thế hình ảnh của Ngài hầu chia đau sớt khổ cùng con cái khổ não của Ngài như thế nầy.

Chúng ta có thể nói, các Ðấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh tộc của chúng ta tưởng cả thảy con cái Ðức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên là thế nào?

Ngộ nghĩnh thay! Ðức Chí Tôn làm thế nào mà chư vị Ðại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng đến đặng tạo dựng cái nền Tôn Giáo của Ngài. Ðức Hớn Chung Ly tức nhiên cái ngươn linh của Ðức Cao Thượng Phẩm đó vậy.

Nên giờ phút nầy Bần Ðạo nhớ đến có mảy may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm trong tay tạo Ðạo không còn nữa, thành thử không có cây cơ thứ nhì.

Nói thật ra, cái cơ phong Thánh, cơ lập Thánh, cơ Truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ nầy thảng có cơ phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Ðạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ phong Thánh hiển nhiên giờ phút nầy không còn tồn tại, cái tiếc của Bần Ðạo hay chăng là điều đó.

 


 

Q.1-53. Bài Giảng Ðạo của ông Tiếp Pháp, đêm 30 rạng mùng 1 tháng 3 năm Nhâm Dần (1962): Lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng Phẩm.

 

BÀI GIẢNG ÐẠO CỦA ÔNG TIẾP PHÁP
Thuyết tại Ðền Thánh đêm 30 rạng mùng 1 tháng 3 năm Nhâm Dần (1962)
trong dịp Vía Ðức Cao Thượng Phẩm.

Kính thưa Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu Lưỡng Phái.

Hôm nay là ngày Vía của Ðức Cao Thượng Phẩm, chúng tôi xin nhắc tiểu sử của Ngài, âu cũng là dịp xưng tụng công đức của người quá cố và cũng ôn lại cái đại chí của người tu hành để làm gương cho đoàn hậu tấn.

Hồi tưởng lại, kể từ ngày mùng 6 tháng 6 Ất Sửu, nhằm ngày 26-7-1925 tại tư gia của Ngài ở Sài Gòn, thường có năm ba người bạn nhóm họp xây bàn, thông công với các vong linh để xướng họa thi phú. Vì ham mộ văn chương mà những vị ấy tiếp tục xây bàn, kế đến phò cơ chấp bút và sau rốt lập thành một nền Tôn Giáo Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ðức Thượng Phẩm là người có đức tin hơn hết.

Lịch trình tiến triển sự phò cơ kể đại lược như vầy:

Nguyên đêm 10 tháng 7 năm Ất Sửu (1925), tại tư gia của Ðức Cao Thượng Phẩm, các anh em cũng xây bàn như thường lệ, thoạt nhiên có Ðức Chí Tôn đến, nhưng không xưng tên thiệt mà lại mượn chữ A.Ă. làm danh hiệu để xưng hô, có lẽ Ðức Chí Tôn mượn tên ấy để cho ba người dạn dĩ lân la học hỏi. Ðến ngày 1 tháng 11 Ất Sửu nhằm 16-12-1925 Ðức Chí Tôn dạy phải lập Ðàn Cầu Ðạo, Ðức Thượng Phẩm lập bàn Vọng Thiên tại tư gia của Người ở đường Bourdais Sài Gòn (nay là đường Bác sĩ Calmette).

Cầu Ðạo rồi Ðức Chí Tôn dạy phải dùng Ngọc Cơ để tiếp xúc với Ðức Chí Tôn, thì cái giai đoạn xây bàn đến đây là cáo chung.

Từ đó, những vị đã theo xây bàn trước kia, lại dùng lối phò cơ để học hỏi, mãi đến đêm 24-12-1925 dương lịch lễ Chúa Giáng Sinh, thì Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy như vầy:

Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Ðạo Nam Phương

"Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên."

Ðêm nay 25-12 phải vui mừng, vì đó là ngày của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây. Ta rất vui lòng mà đặng thấy Ðệ Tử kính mến Ta như vầy. Nhà nầy sẽ đầy ân đức Ta.

Nhà nầy mà Ðức Chí Tôn nói là tư gia của Ðức Cao Thượng Phẩm, khi Ðức Chí Tôn thăng rồi, người người nhìn nhau với một vẻ ngạc nhiên vừa mừng vừa sợ.

Thì té ra sự xây bàn phò cơ từ trước đến nay không phải là việc của người phàm tiêu khiển ngày giờ mà thật là việc của Trời khai Ðạo. Sự phổ độ khởi đầu từ đó, người nhập môn càng ngày càng thêm đông .

Ðến ngày 14 tháng 10 Bính Dần, nhằm ngày 18-11-1926, Ðức Chí Tôn dạy thiết Ðại Lễ Khai Ðạo chánh thức tại Từ Lâm Tự tỉnh Tây Ninh, đồng thời Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền phong vị cho Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài, và Ðức Chí Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật, vậy sau ba tháng Ðại Hội, Ðạo đã có Pháp, có Luật thì nghiểm nhiên Ðạo thành một nền Tôn Giáo danh gọi là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Từ đó Ðức Cao Thượng Phẩm xin nghỉ làm việc đời để có rộng ngày giờ hành Ðạo, thành thử khi Tòa Thánh dời vô làng Long Thành là Thánh Ðịa bây giờ, trong hàng Chức Sắc H.T.Ð duy có Ðức Cao Thượng Phẩm phế đời trước hết, Ngài thay mặt cho tất cả anh em Ðài Hiệp Thiên cộng tác với Cửu Trùng Ðài phá rừng cất Tòa Thánh tạm.

Trong trường công quả, Ðức Thượng Phẩm rất tận tâm, Ngài quyết chí góp công vào sự kiến tạo một nền Ðại Ðạo tại xứ Việt Nam, nhưng trong thời gian phục vụ, Ðức Ngài phải chịu nhiều phen thử thách, lắm khi Ngài muốn ngã lòng, nhưng nhờ tinh thần vững chắc rồi cũng vượt qua, thật đúng lời cổ nhơn nói:

"Ðạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng,
Ðạo cao nhứt trượng, ma thượng đầu nhơn".

Nghĩa là Ðạo cao một thước, thì ma cao một trượng, Ðạo cao một trượng, thì ma cao khỏi đầu người.

Nhưng than ôi! Thiên số nan đào, rồi Ngài lâm bịnh mãi đến ngày mùng 1 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929) thì Ngài qui Tiên, năm ấy Ngài được 42 tuổi.

Nói tóm lại, đời của Ðức Cao Thượng Phẩm lúc tuổi xuân là một vị công chức của Chánh Phủ Pháp, khi vào Ðạo là một vị Ðại Thiên Phong nơi Ðài Hiệp Thiên, ngày công viên quả mãn đắc vị "Kim Tiên" thật công trình cần lao khó nhọc không uổng.

Nay Ðức Thượng Phẩm thuộc về người Thiêng Liêng thì Ngài lại có nhiệm vụ "cứu rỗi phần hồn của chúng sanh". Trong tay Ngài sẵn có hai món Cổ Pháp là "Long Tu Phiến" và "Phất Chủ". Thiết tưởng chúng ta nên bàn qua cái sở dụng của hai món Cổ Pháp ấy cho rõ.

Long Tu Phiến: - Về Pháp thể thì dùng 36 lông cò trắng kết thành một cây quạt; còn về Pháp linh thì Ðức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy như vầy:

"Long Tu Phiến là cây quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực có ảnh hưởng đến cuộc tấn hóa của quần linh. Chơn thần nào trong sạch thì nương theo đó mà siêu nhập Cực Lạc Thế Giới.

Trái lại, chơn thần nào luyến ái tà mị thì lánh xa mà đi lần đến U Minh cảnh giới. Cả cơ "thu" và "đẩy" của Long Tu Phiến với chơn thần đều do luật "đồng khí tương cầu" mà thành tựu. Nghĩa là chơn thần đạo đức thì Long Tu Phiến hấp dẫn đến gần và đưa vào Cực Lạc Thế Giới; còn chơn thần trọng trược thì Long Tu Phiến đẩy ra xa và lần hồi đi đến cảnh U Minh đen tối."

Phất Chủ: - Phất Chủ là điển khí của Thất Bửu Diêu Trì kết hợp dùng để trau rửa chơn thần trở nên thanh khiết.

Ðó là tiểu sử của Ðức Cao Thượng Phẩm, chúng ta là đoàn em cũng nên noi gương của người anh mà lần bước trên đường hành Ðạo.

TIẾP PHÁP

 


 

Q.1-54. Bài Thuyết Ðạo của ông Hiến Pháp, ngày Mùng 1 tháng 3 Quý Mão (1963): Lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng Phẩm.

 

BÀI THUYẾT ÐẠO CỦA ÔNG HIẾN PHÁP
Nhơn ngày Vía Ðức Cao Thượng Phẩm
Mùng 1 tháng 3 Quý Mão (1963)

Kính thưa Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu Lưỡng Phái.

Nhơn ngày Vía Ðức Cao Thượng Phẩm, tôi xin lược thuật lịch sử của Người như sau nầy:

Toàn thể Ðạo Cao Ðài đều rõ biết mối Ðạo nầy do nơi nào mà xuất hiện.

Nguyên buổi ban sơ vào năm Ất Sửu (1925) ông Cao Quỳnh Cư (tức Thượng Phẩm) đang làm một công chức của Chánh Phủ Pháp thường tới lui chơi với ông Cao Hoài Sang (tức là Thượng Sanh) và ông Phạm Công Tắc (tức là Hộ Pháp) hai ông sau nầy cũng là công chức. Trong năm ấy tại thủ đô Sài Gòn, việc xây bàn là sai ma rất thạnh hành.

Ông Cao Quỳnh Cư cũng vì sự háo kỳ, đề nghị cùng hai ông bạn kia xây bàn mời các vong linh về hỏi việc và làm thi chơi. Ban đầu các vong linh về làm thi họa vận, làm cho mấy ông thích chí, vì có nhiều bài thi xuất sắc và cảm kích lạ thường. Lần lần mấy ông được tiếp xúc với mấy vị cao nhân, rồi đến lượt Ðức Chí Tôn giáng dưới danh hiệu A.Ă. cố ý dìu độ mấy ông, nhứt là ông Cao Quỳnh Cư, vì cuộc xây bàn tổ chức tại nhà ông nầy.

Nhơn dịp lễ Giáng Sinh Ðức Chúa Giê Su (đêm 24 rạng 25-12-1925), Ðức Chí Tôn đến xưng chánh danh "Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Tiên ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Ðạo Nam Phương" và cho bài thi sau nầy:

"Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên".

Ngài dạy luôn rằng: "Ðêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe).

Theo lời Ðức Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm là chơn linh Hớn Chung Ly, một vị Ðại Tiên trong Bát Tiên, lãnh sứ mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền Tôn Giáo tại thế nầy. Người cùng Ðức Hộ Pháp hợp thành cặp cơ Phong Thánh lập Pháp Chánh Truyền và Tân Luật để làm Hiến Chương cho nền Quốc Ðạo.

Chúng ta phải nhìn nhận đầu công khai Ðạo của Ðức Cao Thượng Phẩm vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng Ðức Hộ Pháp thì:

  • Ðâu có Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

  • Ðâu có Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ.

  • Ðâu có Hội Thánh và các Cơ Quan trong Ðạo.

  • Ðâu có Pháp Chánh Truyền và Tân Luật.

  • Ðâu có Ðại nghiệp hiện giờ cho Nhơn sanh thừa hưởng.

Ðức Cao Thượng Phẩm có tánh cao thượng và cương quyết, nên khi nhận chơn được mối Ðạo Trời thì Người nghe theo tiếng gọi Thiêng Liêng, phế đời hành Ðạo liền, mặc dù lúc đó ông đang là một vị công chức.

Tuy Ðạo khai ngày 14 tháng 10 Bính Dần (1926) mà thực sự Ðức Cao Thượng Phẩm đã ngộ Ðạo từ năm Ất Sửu (1925) vì các Ðấng đã mượn bàn tay Người mà mở Ðạo bằng cách xây bàn từ năm ấy.

Ðức Cao Thượng Phẩm về hành Ðạo tại chùa Gò Kén hơn ba tháng, từ 14-10 Bính Dần (1926) đến 20-2 Ðinh Mão (23-3-1927) thì dời chùa về đất mới mua tại Tòa Thánh hiện thời.

Lúc mới dời về đây, Chức Sắc chưa có mấy người thì việc phá rừng dọn đất, tạo tác và kiến trúc Ðền Thánh tạm cùng các cơ sở khác đều do một tay Ðức Cao Thượng Phẩm chỉ huy xây dựng.

Sau 4 năm tận tụy với Ðạo, Người bị một cơn khảo đảo rất lớn, làm cho hết sức buồn tủi, nếu không vì Thầy vì Ðạo, thì có thể trở ra mặt thế mà chớ.

Ðối với người hiểu Ðạo, thì việc khảo đảo thử thách là việc thường không chi lạ; các vì Giáo Chủ xưa kia cũng không tránh khỏi sự thử thách. Hễ bị khảo nhiều thì công đức càng cao, nên ngày nay Ðức Cao Thượng Phẩm được toàn Ðạo kính mến xưng tụng công đức và được hưởng ân huệ Ðức Chí Tôn rước về Thiêng Liêng vị để đem các chơn hồn vào cửa Thiên như lời Thánh giáo của Ðức Chí Tôn ngày 7-3 năm Kỷ Tỵ (1929) dạy rằng:

"Các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần đời, còn phần Ðạo nơi cõi Thiêng Liêng cũng phải có đôi đứa con mới đặng cho".

Ðó là bằng chứng cụ thể cho chúng ta thấy rằng: Nếu chúng ta hết lòng vì Ðạo, thì phần thưởng Thiêng Liêng không mất, ấy là công bình Thiên Ðạo vậy.

HIẾN PHÁP

 


 

Q.1-55. Tiểu Sử Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu.

 

Tiểu Sử BÀ CHÁNH PHỐI SƯ HƯƠNG HIẾU

Tôi ký tên dưới đây là Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu.

Ngày tháng nhẹ nhàng trôi qua thắm thoát, tuổi Ðạo ba mươi mấy năm rồi mà tôi mảng lo phục vụ cho nhơn sanh từ buổi trung niên cho đến nay đầu bạc, chưa có thì giờ nhàn rỗi để soạn lại những gì tôi đã làm "Tôi" Trời Phật và Hội Thánh Tây Ninh.

Hôm nay tôi nghĩ rằng "Quang âm như thạch hỏa xá thế vô bá tuế nhơn". Vì thế mà tôi viết quyển sách nầy để nhắc lại kể từ ngày được may duyên sớm gặp nền Ðại Ðạo cho đến ngày nay tôi bảy mươi ba tuổi, đặng hầu lưu lại trong lúc tôi qui vị cho khỏi mất công quý vị tìm kiếm công quả những ngày tôi hành Ðạo tại thế.

Tôi là con của ông Nguyễn Văn Niệm và bà Trần Thị Huệ. Cha mẹ tôi đã khuất hết rồi.

Ngày sanh tôi: Năm Ðinh Hợi, Date de naissance 1886 (Lieu de Naissance: Rue Paulbert Dakao Saigon).

Khi tôi mới khai sanh, Bà Nội tôi muốn tỏ dấu một nhà đạo đức, nên cha tôi là Nguyễn Văn Niệm, thì Bà Nội tôi đặt tên tôi là Nguyễn Thị Hương, còn Bà Ngoại tôi thì đặt cho tôi là Nguyễn Thị Hiếu.

Cha tôi muốn vừa lòng cả nội ngoại đôi bên, nên khi ở bên nội thì gọi tôi tên Hương mà khi về bên ngoại thì gọi tôi tên Hiếu.

Thân sinh quê quán tại tỉnh Cần Thơ. Thân mẫu ở miền Gia Ðịnh.

Thuở tôi vừa nên 7 tuổi, thân mẫu tôi cho tôi vào học trường Bà Phước (Nhà Trắng) Sàigòn, đến 17 tuổi cho học nữ công, qua năm 21 tuổi sánh duyên cùng ông Cao Quỳnh Cư ở làng Hiệp Ninh (Tây Ninh), năm 23 tuổi tôi sanh được một trai tên là Cao Quỳnh An.

Ðến năm 38 tuổi, gặp thời kỳ Chí Tôn đến khai nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Một sự ngẫu nhiên của cơ huyền bí mà trước kia ba ông Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh có tính cách Xây Bàn cầu vong để làm thi tiêu khiển, đâu có ngờ là thời kỳ Ðức Chí Tôn khai cơ mở Ðạo (Xin xem qua Ðạo Mạch Truy Nguyên *1). Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà tôi trước, đầu tiên ở đường Bourdais số nhà 134 Sàigòn.

Năm 1925 khai Ðạo chưa có Thánh Thất, nên các Ðấng Thiêng Liêng dạy tạm dùng nhà tôi để thờ Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu đặng có nơi cầu cơ dạy Ðạo và dìu dắt nhơn sanh trong buổi đầu tiên là năm 1925. Ðến năm 1926, mới mở Ðạo lần tới Tân Kiệm, Tân Ðịnh, Lộc Giang, Thủ Ðức.

Trong buổi chưa có Ngọc Cơ còn xây bàn, các Ðấng giáng dạy Ðạo cho Ðức Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm và Ðức Thượng Sanh thì bàn gõ từ chữ, Ðức Thượng Phẩm hô chữ nào thì tôi chép chữ nấy rồi mới ghép lại cho thành văn.

Vì thế mà lúc còn xây bàn, các Ðấng giáng cho một bài thi Bát cú hay Tứ cú hoặc dạy việc gì, khi chép xong rồi mới ráp lại một bài thật là lâu lắm, mà mỗi đêm mỗi cầu, buổi ấy tôi làm Biên Tập Viên (Thơ Ký) cho các Ðấng.

Thi văn của các Ðấng dạy Ðạo, có nhiều câu văn rất cao kỳ và mầu nhiệm (xin xem đoạn trước, Tiểu Sử Xây Bàn, thì sẽ rõ).

Vì thế mà ba ông mê thi văn của các Ðấng nên đêm nào cũng thức để cầu cơ học hỏi cho đến khuya trong bảy tháng trường như vậy ai cũng ốm gầy xanh xao hết mà không đêm nào buồn chán (sơ lược khoản nầy để xem tiểu sử Ðức Cao Thượng Phẩm thì rõ).

Bổn phận tôi ban đêm làm Thơ Ký chép Thánh giáo học hỏi, còn ban ngày thì lo yến tiệc tiếp đãi quí khách thượng lưu, trung lưu, hạ lưu, thiên hạ rộn rịp tới lui tìm Ðạo, ngày nào chẳng nhiều thì ít, khách gần khách xa lui tới liền liền trong năm 1925.

Trong hai năm 1925, 1926 chưa có người để chép Thánh giáo, nên tôi được vừa làm Thơ Ký cho các Ðấng và tiếp đón nhơn sanh, từ tháng 6 năm Ất Sửu (1925) đến năm Bính Dần (1926); lúc sau dời về chùa Gò Kén mới có người chép phụ với tôi (mà cũng là phần ít).

Hồi chưa có Tòa Thánh, còn trong buổi phôi thai, mỗi khi khai đàn thượng tượng (thờ Thầy), riêng về phần tôi theo chép Thánh giáo đem về cho Ðức Cao Thượng Phẩm chấm câu, còn chủ nhà chép riêng theo phần của chủ nhà (khai Ðạo tại Sàigòn). Xin quí vị xem kỹ lại, có Thánh giáo Thầy kêu tôi: "Hiếu, viết rõ con" (Quý ông Hiệp Thiên Ðài đều biết rõ hết).

Lúc nầy nhà tôi còn ở Sàigòn, Ðức Chí Tôn mở Ðạo trước tại Sàigòn bảo Ðức Thượng Phẩm vẽ Thiên Nhãn (Thánh Tượng nhỏ còn đó), còn tôi thì lo mua khuôn kiếng đặng lộng Thiên Nhãn cho chư vị mới nhập môn, tôi cho thỉnh không khỏi trả tiền và tôi còn phải dạy thờ cúng và dạy đọc kinh. Tôi giảng giải sơ lược chớ còn nhiều chi tiết khác.

Trải bao thỏ lặn ác tà, những hàng trí thức cùng người mộ Ðạo tìm đến nhập môn khá đông thì tôi lại phải để hết lòng lo tiếp đãi và chỉ dẫn trong lẽ Ðạo, thời gian ấy tôi quên cả gia đình và sản nghiệp, chỉ vui say theo đường Ðạo mà các Ðấng thường giáng đến dạy dỗ khuyên lơn.

Ðến tháng 3 năm Bính Dần (1926) Chí Tôn giáng cơ dạy tôi may Thiên phục cho ông Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt trước hết, kế may Thiên phục cho Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài. Thông qui kể ra sau đây:

Thiên phục Cửu Trùng Ðài:  
  Ông Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt: 1 áo Ðại Phục xanh và 1 cái khăn chín lớp.
  Ông Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt: 1 áo Ðại Phục đỏ, 1 khăn chín lớp đỏ.
  Ông Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh: 1 áo Ðại Phục vàng và 1 khăn chín lớp vàng.
  Ông Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh: 1 áo Ðại Phục xanh và 1 khăn xanh chín lớp.
  Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh: 1 áo Ðại Phục đỏ và 1 khăn đỏ chín lớp.
  Ông Phủ Ngô Minh Chiêu: (1) 1 áo Giáo Tông có thêu chữ bùa Bát Quái và 1 cái mão Giáo Tông.
  Ông Phủ Vương Quang Kỳ Giáo Sư: 1 áo Ðại Phục xanh và 1 cái khăn bảy lớp.
Thiên phục Hiệp Thiên Ðài:  
  Ðức Cao Thượng Phẩm: 1 cái áo Ðại Phục trắng, 1 cái áo lá xanh.
  Ðức Thượng Sanh: 1 cái áo Ðại Phục trắng, 1 cái áo lá xanh.
  Quí vị Thập Nhị Thời Quân: 12 cái áo Ðại Phục trắng, 12 cái mão Nhựt Nguyệt Mạo.

 

(1) Ông Ngô Minh Chiêu đáng lẽ phải đắc phong Giáo Tông chánh vị, nhưng tiếc thay ngày lập Ðàn Thiên Phong ông Chiêu đến thấy đông người ông sợ bỏ ra về, vì vậy mà ông không được phong Giáo Tông, và về sau mất hẳn phẩm.

Thầy phong 4 vị Lễ Sanh: Anh Chín Giảng, anh Phán Giỏi, anh Ðốc Bản, anh Ký Tường.

Bốn anh trên đây sau thăng Giáo Hữu, tôi may bốn bộ sắc phục Lễ Sanh, bốn bộ sắc phục Giáo Hữu (áo mão).

Tôi may ba bộ Thiên phục hồng y cho ba ông Vân, Mùi, Ðạt.

Tôi may Thiên phục áo mão kể trên đây là hồi tôi và cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài còn ở Sàigòn.

Trong lúc tôi đang may, tôi lại nhớ như ai nhắc tôi, nhớ lời Thầy giáng cơ gọi tôi: "Hiếu con lo may Thiên phục cho mấy anh con cho kịp ngày Ðại Hội". Ðại Hội là ngày Khai Ðạo tại chùa Gò Kén.

Ðang lúc may dường như có Thiêng Liêng khiến cho tôi nhớ lại chùa Gò Kén là chùa Phật lạ lùng, mà thuở giờ mình chưa quen biết với những Ni cô ở chùa mà cậy mượn sắp đặt việc trù phòng để lo việc nấu ăn, nấu uống cho Chức Sắc và Thiện tín 20 tỉnh tựu đến hầu Ðàn, nếu không lo trước chừng đó biết cậy mượn ai, vừa may vừa đang lo tính thì Chí Tôn bố trí cho tôi sáng suốt lật đật viết thơ về Tây Ninh, cậy mượn bà con tôi như chị Ðại Hương Cả Trịnh Thị Thị, chị Trịnh Thị Cung, chị Trịnh Thị Dung. Tôi cho em dâu tôi là vợ Huyện Thiệt thay mặt dùm tôi mang bức thơ về Tây Ninh cho 3 chị của tôi. Trong thơ tôi sở cậy ba chị tôi sắp đặt việc trù phòng, nào đắp lò, nào đào giếng, đương nia, sịa, rổ, tràng, chuốt đũa...v.v... và dặn em dâu tôi ở luôn trên ấy để chung lo với ba chị tôi.

Thiết tưởng ngày khai nền Chơn Ðạo là ngày hạnh phúc cho tất cả Vạn linh nên cử sát sanh để cầu phước, vì vậy ba chị tôi ra chùa Gò Kén truyền cho ai nấy cất quán lều mua bán thì ròng đồ chay, chớ không nên bán mặn, nhờ tôi tính như vậy mà được kết quả. Ðến ngày Khai Ðạo 14 tháng 10 Bính Dần, Chức Sắc và Tín Ðồ trong 20 tỉnh về hầu Ðàn và ngoài đời thiên hạ đi coi tấp nập đều dùng đồ chay tất cả, vì từ chùa Gò Kén ra chợ Tây Ninh xa 7 cây số ngàn, thì thế nào còn muốn ăn mặn được. (Các khoản nầy là nhắc lại buổi ban sơ trong sổ nhựt ký của tôi, còn dài dòng không thể tả hết ra đây cho được, sau sẽ tiếp theo với Thánh giáo buổi sơ khai cho trọn tích).

Ngày khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại Tây Ninh kể dưới đây:

Ngày 14 tháng 10 Bính Dần (18-11-1926), cả thảy Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài đều về chùa Gò Kén thì tôi cũng theo về một lượt để làm công quả. Phần tôi dầu ở Sài Gòn hay về chùa Gò Kén thì luôn luôn có bổn phận lo tiếp đãi Chức Sắc và Quan khách ngoài đời, vì lúc sơ khai không có công quả trù phòng nên tôi phải lo đi chợ nấu ăn và cô Sáu Vàng (Giáo Hữu) chung lo việc bếp núc với tôi.

Việc tiếp đãi trong Ðạo, ngoài đời trong thời buổi ấy không phải giờ khắc, nấu đãi liền liền, khách đến giờ nào đãi giờ nấy, vì kẻ xa người gần, hết tốp nầy đến tốp khác, buổi Khai Ðạo tại chùa Gò Kén thật là một kỳ Ðại Hội. Ban đêm hễ cúng thời Tý rồi thì cầu cơ nhập môn kéo dài đến hai ba giờ sáng thì phải lo nấu đãi một chập giải lao nữa. Như vậy trong ba tháng trường ngày lẫn đêm, tôi phải thường trực lo nấu ăn đi chợ và tiếp đãi không sót ngày nào. Hơn nữa, lối 5 giờ chiều tôi lo viết sớ cho Nữ phái nhập môn, lại dạy cách lấy dấu và quì lạy đặng lo cho họ thành thuộc đến giờ Tý thì tôi tiến dẫn vào nhập môn và hầu Ðức Lý Giáo Tông. Buổi Khai Ðạo chưa có Ðồng Nhi, nên tôi phải làm Ðồng Nhi đọc kinh cúng Tứ Thời và đọc kinh cầu cơ đêm nào như đêm nấy suốt cả ba tháng trường.

Thời buổi ấy đâu cũng gom về chùa Gò Kén để nhập môn. Phái Nữ thì tôi tiến dẫn, đêm thì 90 vị, đêm thì 150 vị, thật là con cái Chí Tôn qui về tấp nập. Bởi phận sự tôi công việc bộn bàng, khi thì đi chợ, khi viết sớ, khi may Thiên phục cho mấy ông mới thọ phong.

Thông qui may Thiên phục kỳ nhì kể sau đây:

  1. Giáo Sư Thượng Liên Thanh (Cả Liên, Tây Ninh).

  2. Giáo Hữu Ðó.

  3. Giáo Hữu Gồng (Thổ, cựu Mẹ Sóc)

  4. Giáo Hữu Tàu.

  5. GH. Trịnh Văn Kỳ.

  6. GH. Trí.

  7. GH. Ðại.

  8. GH. Mai.

  9. GH. Ðức.

  10. GH. Áo.

  11. GH. Thái Phước Thanh (tự là Bửu Phước).

Áo Ðàn Thổ và áo Bàn Trị Sự.

Ðây là tôi may Thiên phục cho Chức Sắc Thiên Phong tại chùa Gò Kén.

Qua đến ngày 14 tháng 01 Ðinh Mão (15-02-1927), tôi thọ Thiên Ân Giáo Sư Nữ phái do cơ Phong Thánh kỳ nhứt, Ðức Hộ Pháp và Ðức Thượng Phẩm phò loan. Hồ sơ nầy hiện giờ còn tại Lại Viện Nữ Phái.

Ðến ngày 20-02 Ðinh Mão (23-03-1927), Hội Thánh trả chùa Gò Kén lại cho ông Hòa Thượng Giác Hải, thỉnh cốt chư Phật và cốt Ðức Phật Thích Ca cỡi ngựa về đất mới mua là nơi Ðền Thờ và dinh thự đồ sộ, nguy nga nơi vùng Tòa Thánh ngày nay mà thiên hạ ngoài đời thời buổi ấy gọi là Chùa Mới là vậy đó.

Sau đây xin lược giải về vụ thỉnh cốt Phật về chỗ đất mới mua để cho Thiện nam Tín nữ được rõ mối Ðạo Trời trong buổi sơ khai là dường nào.

Từ 6 giờ chiều ngày 13-02 Ðinh Mão (nhằm 16-03-1927) khởi hành thỉnh cốt Phật cho đến 2 giờ khuya mới tới chỗ đất mới mua, vì thỉnh ban ngày sợ nắng gắt e đi không nổi, cho nên phải đợi mặt ông sắp lặn, đi cho mát mẻ.

Khi thỉnh Phật, cả Chức Sắc và công quả buổi ấy, phần nhiều là người Miên đều mệt đuối vì phần đường xa, cốt Phật thì lớn nên rất nặng nề, phần đói và khát nước. Ði dọc đường nhờ có đạo hữu gánh nước theo từ chặng đường, nhưng uống cũng không đủ, nên khi rán sức di tượng Phật về đến nơi rồi thì ai nấy đều nhào vô đám lá cây khô trong rừng nằm thở dốc.

Còn phần Ðức Cao Thượng Phẩm thì phải chăm nom, lúc thỉnh cốt Phật Như Lai, vì Ðức Lý Giáo Tông có giáng cơ dặn rằng khi thỉnh cốt Phật Tổ cỡi ngựa thì phải cẩn thận đừng cho gãy sứt để cầu Ðức Lý đưa Thần ra một đổi. Lúc thỉnh cốt Phật Tổ, vì quá nặng, nên phải nối hai chiếc xe mới chở nổi. Ðức Thượng Phẩm phải đứng trên xe coi chừng, nếu nghiêng bên nào thì hô lớn lên cho họ biết mà làm cẩn thận. Như vậy từ 6 giờ chiều đến 2 giờ khuya thì Ðức Cao Thượng Phẩm cũng mệt người nên khi đến nơi thì cũng nhào xuống đống lá cây khô nằm nghỉ (trước cửa Hòa Viện).

Chỗ đất mới mua đây là đất của ông Kiểm Lâm người Pháp. Hội Thánh mua lại, trước kia là một khu rừng rậm, cây cối um tùm, chưa có nhà ai cho lắm, chỉ có một hai cái nhà ở rải rác ngoài bìa rừng, mà ngày nay thành vùng Thánh Ðịa Tòa Thánh nguy nga, dinh thự lộng lẫy, nhà cửa kinh dinh thịnh vượng. Cái công trình kiến thiết buổi ban sơ không phải là dễ.

Nói về vấn đề phá rừng (thành Thánh Ðịa), buổi ban sơ dọn về đất mới, Ðức Hộ Pháp và Ðức Cao Thượng Phẩm tính phá rừng mà không có nhà ở, nên phải tạm sửa cái nhà bò của chủ bán đất còn để lại, rửa cho sạch sẽ, phân làm ba ngăn, nghĩa là ngăn ra cho có thứ tự, chỗ thì để cho công quả ở nghỉ (công quả người Miên), chỗ làm kho chứa đồ dụng cụ để phá rừng như là: máy đánh gốc, nào cuốc, nào xuổng, xà cốc, lòi tói... Còn một chỗ thì làm kho trữ gạo và thực phẩm, một bên thì hai ông ở tạm, rồi hai ông mượn công quả đi đốn cây nạn (YYY) đặng làm cái chõng để nằm, đi đốn cây săn con làm vạc, trên thì lót bố tời đặng nằm cho êm lưng đỡ vậy thôi. Ngày nào hai ông cũng dẫn dắt công quả (Thổ) đi chặt chỗ nầy đốn chỗ kia để phá cho trống đặng cất Tòa Thánh tạm, lần lần phá đến đâu thì cất đến đó đặng an vị chư Phật và có chỗ nơi cho nhơn sanh sùng bái.

Nhớ lại cách hơn 30 năm về trước, vùng Thánh Ðịa là một chốn rừng thiêng nước độc, là nơi sào huyệt của lũ ác thú. Theo con đường quốc lộ, hành khách ít ai qua lại, bóng ác chưa khuất non đoài thì loài hổ báo đã thị oai gầm thét. Chẳng bao lâu mà ngày nay, một Tòa Thánh Tổ Ðình sừng sựng chọc trời, nguy nga đồ sộ nơi miền Ðông Nam Á. Có phải chăng, nếu chẳng có giọt hồng ân của Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng chan rưới hộ trì, và hai ông Ðức Hộ Pháp, Ðức Thượng Phẩm vì sứ mạng Thiêng Liêng tận tâm phục vụ thì chưa biết ngày nào mà được một cảnh Cực Lạc như ngày hôm nay.

Phần của tôi trong lúc tạo tác, thì phải lo lắng nấu ăn cho công quả phá rừng có cả ba trăm người Thổ. Mọi việc khởi đầu nan, hễ thiếu tới đâu thì tôi lo tới đó. Vì chưa lập Cửu Viện để sắp đặt việc ăn uống cho công quả hằng ngày, buổi đó chưa có Trai Ðường, nên hễ phá rừng đến đâu thì tới bữa cơm dọn ăn phải gánh đồ theo đấy, lựa chỗ nào có bóng cây thì trải đệm dọn cơm. Ăn xong thì dọn chén bát đem về trù phòng là nơi nhà bò mà rửa ráy, buổi mơi, buổi chiều luôn luôn như vậy.

Thưa quý ông, quý bà thứ lỗi, đoạn đầu tôi nói về tiểu sử của tôi, sau đây sao lại nói qua những đoạn nầy chẳng là trái hẳn với thiên tiểu sử, xin quý ông, quý bà cảm phiền, bởi vì Ðức Chí Tôn lập Ðạo kỳ ba là vĩnh viễn trường tồn, nên tôi phải ghi rõ lại, chẳng những công quả của tôi, mà cũng ghi lại sự nghiệp to tát của Chức Sắc và công quả của người Thổ lẫn người Việt buổi đầu tiên thật là gay go khổ hạnh, để cho đoàn hậu tấn noi chí hướng đàn anh mà nối bước, hầu thọ khổ mới mong giải khổ của kiếp con người tại thế gian nầy.

Xin nói tiếp về cái nhà bò, sau khi hư dỡ ra, kế nhơn sanh về lập chợ kêu là chợ Từ Bi, lần hồi thay đổi, hiện giờ là quán xá, tiệm chạp phô, tiệm thuốc bắc, khít bên hông nhà Ðức Quyền Giáo Tông, nay là phủ thờ của nhà họ Lê.

Khi cất Tòa Thánh tạm xong rồi, Chức Sắc tựu về đông đảo, kế tiếp cất Hậu Ðiện, Ðông Lang, Tây Lang, Phòng Trù và nhà Tiếp Khách Nam Nữ, lại cất Học Ðường và nhà Dưỡng Lão. Thời buổi ấy người Thổ họ đồn với nhau rằng: Tại Tòa Thánh có thờ ông Phật của họ (tức là Phật Tổ) nên họ kéo đến nhập môn mỗi ngày lu bù. Khi họ đến ban ngày thì dọn ăn ban ngày, đến ban đêm thì dọn ăn ban đêm, tôi và công quả phải thức lo thiết đãi (ấy là bổn phận của Chưởng Quản Trù phòng).

Sau tôi biết ý họ xuống không chừng đổi, vì họ ở vùng Sway Riêng hoặc ở Khét Sà Tiệp, nơi nầy chỗ kia miệt trên Nam Vang kéo xuống, nên bữa nào chiều tối, tôi cũng dự phòng hai chảo cơm và đồ ăn, nghĩ vì họ ở xa xuôi đi tìm Ðạo, đường xa ngàn dặm đi suốt cả ngày họ chịu đói khát, cho nên dầu tôi cực khổ thế nào cũng phải thức để lo tiếp đãi họ, cho họ được vui lòng.

Nhưng sự thật, nhờ các Ðấng vận chuyển cho công việc chóng thành, nên nhờ công quả Thổ buổi đầu họ xuống phá rừng. Thổ nam thì đốn cây đánh gốc; Thổ nữ thì chặt nhánh kéo chà gom lại đốt cho trống mà cất Tòa Thánh tạm. Ðức Thượng Phẩm dắt công quả đốn cây, hễ hạ cây nào ngã xuống thì người cầm thước đo liền, cây thì làm cột, cây thì làm xiêng, trính, kèo... cho thợ mộc đem về, tốp cưa, tốp đẻo đặng lo tạo tác mấy gian nhà nói trên.

Còn tôi thì lo chỉ dẫn cho công quả trù phòng và lo đi chợ mua thực phẩm. Tôi nhớ lại mỗi buổi sáng tôi đi chợ Tây Ninh với chiếc xe ngựa đặng mua đồ ăn. Ðường sá vắng bóng người, hai vệ đường cây che rậm rạp, heo rừng và nai lững thững đi kiếm ăn, thấy xe ngựa chạy ngang chúng tuông vào đám rừng chồi sột sạt làm tôi cũng giựt mình. Một hôm tôi đi đến Trảng Tròn thấy thây một con ngựa bị cọp ăn mất nửa con, còn lại nửa con nằm kế mé lộ đá làm cho tôi cũng phải rùng mình. May phước quá! Nếu cọp đón bắt con ngựa xe của tôi thì còn đâu mà đi chợ hằng ngày để mua đồ ăn cho công quả. Bữa sau tôi nghe người ta nói lại, chiều bữa ấy có người lập kế trèo lên cây rình cọp, chờ khi nó ra ăn nửa con ngựa còn lại họ rình bắn được cọp rồi. Nhưng đâu phải trong rừng chỉ có một con cọp mà thôi sao. Biết đâu cả bầy hổ báo làm sao mà không sợ, nhưng vì quá lo cho Ðạo mà bớt sợ sự hiểm nghèo, nên mỗi buổi sáng đều đi xe ngựa ra chợ Tây Ninh.

Còn Ðức Thượng Phẩm, lớp thì hòa tâm với Chức Sắc lo tạo tác Tòa Thánh, lớp thì bị nhà cầm quyền Pháp để ý nghi ngờ, vì nhơn sanh càng ngày càng tựu hội về tấp nập (đông đảo quá), nên ông Chánh Tham Biện (người Pháp) nay đòi Ðức Cao Thượng Phẩm ra hỏi, mai đòi tra vấn điều nầy lẽ nọ đủ điều, nhưng Ðức Cao Thượng Phẩm trả lời xuôi hết, thành thử họ phải để êm.

Khi tạo tác vừa xong, bỗng đâu bão tố bất ngờ, năm Mậu Thìn (1928), Ðức Cao Thượng Phẩm bị nhơn sanh bạc đãi, xô đuổi chúng tôi trở về Thảo Xá Hiền Cung. Trò đời gẫm lại buồn cười, nhưng xét lại xưa nay bực chí Thánh cũng không khỏi tuồng đời khinh bạc. Ðến năm Kỷ Tỵ (1929), Ðức Cao Thượng Phẩm qui vị vào lúc 10 giờ 30 ban mai ngày mồng 1 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929). Tôi lo tuần tự cho Người xong xuôi rồi tôi cũng trở về Tòa Thánh tiếp tục làm công quả nữa.

Năm Canh Ngũ (1930), tôi vâng lịnh Ðức Lý Giáo Tông bắt thăm đi hành Ðạo, giữa Bửu Ðiện, tôi bắt nhằm thăm tỉnh Sa Ðéc, sau tôi được lịnh Hội Thánh cho tôi kiêm luôn tỉnh Thủ Dầu Một. Hành Ðạo hai tỉnh được 4 năm, từ năm 1930 đến năm 1933, qua năm 1934, tôi được dạy Giáo Nhi 1 năm.

Ðến năm Ất Hợi (1935), tôi được thăng phẩm Phối Sư khỏi đi hành Ðạo địa phương, chỉ hành Ðạo tại Tòa Thánh và chung lo với Chức Sắc Nữ phái đủ phương diện, nào là yến tiệc, tiếp tân, nào là dạy may Thiên phục cho Chức Sắc Nam Nữ tại Linh Ðức. Công quả đến năm 1941, nền Ðạo chinh nghiêng bị nhà cầm quyền Pháp bắt Chức Sắc Thiên Phong đày ra hải ngoại, chiếm lấy Tòa Thánh đóng binh, nên lúc ấy phần nhiều Chức Sắc tản lạc hết còn tôi thì về Thảo Xá Hiền Cung năm 1942, sau kế xuống Sài Gòn hiệp tác với hảng Tàu để chung lo với Chức Sắc Nam Nữ về mặt Ðạo.

Năm 1946 nền Ðạo phục hưng, Chức Sắc Nam Nữ tựu về Tòa Thánh. Hội Thánh phân cắt Cửu Viện cho ba Chánh Phối Sư Nam, phần tôi được sắc huấn như dưới đây:

Sắc Huấn ngày 21 tháng 09 năm Bính Tuất (15-10-1946) - Lãnh Chưởng Quản 3 Viện: Lại Viện, Lễ Viện, Hòa Viện Nữ phái (còn phẩm Phối Sư).

Ðến ngày 16 tháng 11 Canh Dần (22-12-1950), Thánh Lịnh thăng phẩm Chánh Phối Sư, cũng còn trách nhiệm ba viện kể trên đến ngày nay.

Tôi viết thiên tiểu sử nầy, một là bước đường hành Ðạo trọn đời tôi, hơn nữa để lưu lại cho đoàn em Nữ phái thấy rõ công trình của người tiền bối trong buổi sơ khai nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nhiều nỗi gian lao mà chư Chức Sắc Thiên Phong và người công quả buổi đầu vẫn không sờn tâm chí vì nền Chơn Giáo của Chí Tôn và Phật Mẫu hầu lưu lại cho đoàn hậu tấn làm gương để dọn mình tiến bước trên con đường hành Ðạo.

Thi

Tu hành gắng chí lập dày công,
Ðến buổi chung qui hưởng phước hồng.
Cửa Ðạo gay go trường khổ hạnh,
Ðường Tiên nhàn rỗi bước thong dong.
Lợi danh ví muốn cho đầy đủ,
Tội lỗi càng thêm nỗi chất chồng.
Cuộc thế chẳng qua trò ảo mộng,
Ngày về nhắm mắt nắm tay không.

Nữ Chánh Phối Sư
(Ấn ký)
HƯƠNG HIẾU

 

Phụ ghi: (*1) Ðạo Mạch Truy Nguyên hay Ðại Ðạo Truy Nguyên của ông Huệ Chương.

 

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tam Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH

Nữ Chánh Phối Sư
Chưởng Quản Nữ Phái Cửu Trùng Ðài

 

Kính thưa Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng Ðài.

Vấn đề may Thiên phục, tôi thú nhận rằng tôi không biết kiểu mẫu chi hết. Gặp dịp may Thầy giáng dạy quý Anh lớn hồi ở Sài Gòn rồi kêu tôi Thầy dạy luôn (may Thiên phục).

Cũng trong Thánh giáo ngày tháng nầy, nên tôi ghi luôn Thầy dạy tôi may Thiên phục, đặng Thầy ban áo mão cho quý Anh lớn cho kịp kỳ Ðại Hội Khai Ðạo tại Từ Lâm Tự Gò Kén Tây Ninh (Rằm tháng 10 năm Bính Dần 1926).

Nay kính,

Tòa Thánh, ngày 15-07-Quý Mão
(Le 2 Septembre 1963)

Nữ Chánh Phối Sư
(ấn ký)
HƯƠNG HIẾU

 

Kính Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài.

Tôi xin phép tường thuật Thánh giáo của Ðại Từ Phụ giáng cơ như dưới đây:

Le 30-10-1926 (24-09-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn đệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ.

Thầy biểu Hiếu vào nghe, Thầy mượn một chút. Con lên kêu Nhiều (bạn ông Phạm Công Tắc) đến với con đặng nghe Thầy dạy việc nhà. Chư Tín nữ cầu Ðạo đắc vấn.

Hiếu, Nhiều, hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh, từ đây Cư, Tắc phải lo Ðạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy. Thầy lấy làm chua xót mà Ðạo là trọng mới biết liệu sao.

Hiếu bạch: Thưa Thầy con vâng. (1)

Nhiều, sao con? (Nhiều bạch Thầy còn mẹ già).

Nó đi theo với con, mặc kệ nó để đó cho Thầy, con cứ tuân mạng lịnh Thầy mà thôi. Thầy ban ơn cho các con.

Hiếu, con phải chăm nom gìn giữ em con.

 

(1) Tôi vâng sắc lịnh Thầy trên đây, tôi về chùa Từ Lâm Tự Gò Kén Tây Ninh nhằm ngày Khai Ðạo. Quý Anh lớn về, tôi đi chung một đoàn xe, về tới chùa đúng 5 giờ chiều ngày mùng 14 tháng 10 năm Bính Dần (18-11-1926).

 


 

Q.1-56. Ngày 25-02-1926 (âl. 13-01-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy cách lạy.

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

Sài Gòn, Vendredi 25 Février 1926 (13-01-Bính Dần)
(Tại nhà Ðức Cao Thượng Phẩm, đường Bourdais số 134).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Trung vô giữa bái lễ lạy Thầy coi .... Con làm lễ trúng, song mỗi gật con nhớ niệm câu chú của Thầy: Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Trung bạch hỏi: Ðại lễ là sao?

Thầy dạy: Ðại lễ là làm lễ ba lần.

Lần đầu tiên dâng hương và dâng hoa.

Lần giữa dâng rượu.

Lần chót dâng trà.

Phải chính mình con dâng các lễ ấy, khi bái lễ hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.

Từ đây con phải may riêng bộ áo lễ tay rộng, cổ trịch như áo Ðạo, nhưng dải gài chín mối, màu xanh da trời; khăn xanh chín lớp màu da trời. Sau Thầy sẽ lại thêm nữa, nghe và tuân theo. Con mang giày gai hầu Thầy, còn nhứt nhứt đều để chơn không.

Trung, con lạy quá hơn hai đứa bé nầy há!

Trung bạch: ...

Thầy nói: Phải vậy chớ nó đọc ở dưới cho ai nghe.

Trung bạch: (Hỏi về Thiên phục) Còn đồ sắc phục con duy để làm lễ cho Thầy mà thôi, nếu con bận nó đến nơi nào, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều phải tránh hết.

Giải nghĩa:

Ở nhà Ðức Cao Thượng Phẩm mỗi ngày đêm, Ðức Chí Tôn giáng dạy Ðạo. Lúc nọ Thầy sai ba ông đi trọn một tuần lễ, để tôi ở nhà nhớ Thầy buồn quá, Tôi cúng thời chiều, ngước lên Thiên Bàn khóc mà nói rằng: Con biết Thầy có ngự trên Thiên Bàn, nhưng Thầy vắng một tuần rồi, con không thấy lời Thầy dạy, con nhớ quá. Chiều chúa nhựt ba ông về, tôi thắp đèn nhang cầu Thầy, Thầy giáng nói với tôi như vầy:

Hiếu muốn cầu Thầy hơn ai hết.

Trước vốn yêu,
Nay cũng yêu,
Con gái út,
Có bao nhiêu,
Khuyên con lòng vậy mãi,
Cái mến con thương Thầy đều.

Trung, con mặc thử đồ Ðại phục mới may rồi cho Thầy xem... Trung, con coi đẹp quá há!

Hiếu sửa mấy cái dải như Cư nói.

Bình thân Trung.

Còn một nửa, ba con sắm sửa rồi Thầy sai đi đòi nó đến.

Cư bạch Thầy: Thái Ðầu Sư ở nơi nào? - Ðừng hỏi con.

Trung, nội Rằm tháng tới đây, con phải nhóm Ðại Hội đòi luôn phái Ngọc đến đặng thọ Thiên tước nghe. Còn thiếu thảo hài, sắm cho đủ nghe. Hiếu chịu cực may bộ Hồng Y Thiên phục nữa cho kịp ngày Rằm nghe.

 


 

Q.1-57. Tháng 04-1926 (âl. 03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy may Thiên phục.

 

Avril 1926

THẦY

Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng. Trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng có chữ Càn thêu bằng chữ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy, áo cũng vậy.

Hiếu lại phải nhọc công nữa, Thầy giao phần may sắm cho con. Con liệu cho kịp, Rằm phải có nghe con.

Hiếu lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi.

Mme Cư bạch Thầy.... Mão nầy là mão Giáo Tông.

Trước ngực ngay trán phải để chữ cung Càn - chữ vàng, chữ Bát Quái - Còn cái áo con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.

Nghe và tuân theo nghe con.

Trung, đêm nay đừng cầu Thầy nghe con.

 


 

Q.1-58. Ngày 18-04-1926 (âl. 07-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy may Thiên phục.

 

18 Avril 1926

Mừng sắp con,

Hiếu quì bạch Thầy chỉ dạy may mão Ðức Giáo Tông bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào?

Thầy sẽ nhứt định mọi việc.

Thầy dạy: Mão bề cao ba tấc, ba phân, ba ly thước Lang Sa; may giáp mối lại thì thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường xếp ấy là Âm Dương tương hiệp, Hiếu biết mà.

Sợi dây xếp hai lại còn bên trái có hai dải thòng xuống một mí dài một mí vắn, mí dài ba tấc.

Giáo Tông- Thảo hài.

 

Tái cầu: Ngày 19 Avril 1926 ( Nhà ông Cao Quỳnh Cư).

Có tạo đỡ một cái mão bằng giấy dưng lên cho Thầy xem.

Cười ....

Ðặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo.

 

Ngày 19 Avril 1926 - Mitre-

Sợi dây viền ăn liền hai bên, chớ đừng cắt rời ra nghe con. Con giỏi lắm, Hiếu.

Hai dải thòng xuống vai ba tấc bề dài, ba phân bề ngang, phải vậy rồi.

Cư để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may mão Giáo Tông).

Cư con phải mua giấy vàng cắt miếng bề ngang ba phân, bề dài 9 phân, chấp bút bằng nhang, đặng Thầy họa phù cho thân tộc mỗi Môn Ðệ một người một lá bùa đốt vái Thầy bỏ vô tô nước lạnh mà uống, nghe và tuân theo. (Về vụ bệnh thiên thời)

Mừng chư Môn đệ.

Dạy Cư chấp bút như Thầy đã dặn.

Chư Môn đệ biết sợ há! Ta khen đó.

Trung bạch Thầy: Ðược phép dùng bùa mà cứu chúng sanh chăng?

- Nội gia quyến của Môn Ðệ; phải để luật thưởng phạt theo lẽ công bình của Trời Ðất mới phải chớ, các con.

 


 

Q.1-59. Ngày 22 -04-1926 (âl. 11-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy sắp đặt ngày Thiên Phong và may Thiên phục.

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

Ngày 22 tháng 04 năm 1926 (11-3-Bính Dần)
Ðàn tại nhà Ðức Cao Thượng Phẩm (Sài Gòn).

CAO ÐÀI

Các con vui không.

Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng, nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở; vậy thì ba con sắp đặt thế nầy:

Hiếu, con viết cho rõ con nghe.

Trung nghe, con dời bài vị của Lý Thái Bạch để dưới tượng Thầy. Con dọn dẹp trống hết để một cái ghế bên trang thờ Thầy, rồi để lên trên một cái ghế lớn của bộ ghế phòng khách con đó. Ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư.

Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết, còn bao nhiêu Môn Ðệ phân ra làm ba ban. Ngày ấy có Lịch sắp đặt.

Con đem bộ Thiên phục Giáo Tông mà để nơi ghế ở trên, còn bộ của con để giữa, bộ của Lịch bên hữu, còn ghế tả con phải viết một miếng giấy đề chữ Thái cho thiệt lớn mà dán lên chỗ dựa.

Con phải chỉ cho Hiếu nó sắp mấy cung kia đặng thêu vào áo, ấy là Ðạo. Thầy sẽ coi lại.

Trung kiếm thử (là kiếm thử cái bùa Bát Quái) đặng sắp may trong áo Giáo Tông.

Trung bạch cùng Thầy rằng chẳng hiểu.

Thì con coi mà định luật luyện Ðạo nơi đó. Con lại phải cho thanh tịnh, kể từ nay diệt tận phàm tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới đặng.

Con nghe và tuân theo.

Hiếu dâng mão Giáo Tông may xong rồi cho Thầy xem.

Trúng, mà ai đội con phòng lật đật (Ðức Chí Tôn biết trước là ông Chiêu không lãnh chức Giáo Tông, nên mới có câu nầy).

 

Ngày 22 tháng 4 năm 1926.

CAO ÐÀI

Trung, là biết đặng vì đâu nghe con. (Là sắp mấy cung trong mão Giáo Tông)

Càn: ở trên đầu (thêu chữ Càn trên mão Giáo Tông)
Khảm: ngay hạ đơn điền
Cấn: bên tay mặt.
Chấn: bên tay trái.
Ðoài: bên vai mặt.
Tốn: bên vai trái.
Ly: ngay trái tim.
Khôn: giữa lưng

Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên Phong nghe. Chỗ bàn ngự của Thầy là phải để một cái ghế. Trước ngôi của ba vị Ðầu Sư vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy (là Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt).

"Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn", lại vẽ thêm một lá bùa "Kim Quang Tiên" để thòng ngay chính giữa, ai ngó vào cũng đều thấy đặng. Lịch biết ngôi ba vị Ðầu Sư ở sau bàn thờ Lôi Công Thiên.

Mấy con tối trí lắm nghe à.

Phải vào Bản, đem các bài Thánh ngôn Thầy dạy để đọc cho chúng nó nghe trước rồi mới cầu Thầy.

(Anh Ðốc Bản ở Thánh Thất Cầu Kho).

 


 

Q.1-60. Ngày 24-04-1926 (âl. 13-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ Chi Ðại Ðạo... chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa." & "Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội hiệp cùng nhau, thương yêu nhau trong đạo đức của Thầy."

 

24 Avril 1926 (13-03-Bính Dần).

Lịch ái môn đệ quì như Trung.

Các con nghe dạy.

Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ Chi Ðại Ðạo là: Nhơn Ðạo, Thần Ðạo, Thánh Ðạo, Tiên Ðạo, Phật Ðạo.

Tùy theo phong hóa của nhân loại mà gầy Chánh Giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhân loại duy có hành Ðạo nội tư phương mình mà thôi.

Còn nay thì nhân loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Ðạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định qui nguyên, phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh Giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh Giáo mà làm ra Phàm Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.

Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập chánh thể, có lớn có nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Ðảo.

Vì vậy Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông, nghĩa là Anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cả Môn Ðệ ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn.

Chiêu đã có công tu, lại là Môn Ðệ yêu dấu của Thầy, nên Thầy muốn ban chức Giáo Tông cho nó, song vì lòng ám muội phạm đến oai linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con.

 

24 Avril 1926

Tái Cầu

Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội hiệp cùng nhau, thương yêu nhau trong đạo đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia lìa các con là đứa thù nghịch cùng Thầy.

Chiêu đã hữu căn hữu kiếp; Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục độ rỗi nó trước các con, biết bao phen Thầy gom các Môn Ðệ lại, Thầy sở cậy nó ấp yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con, song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách nhậm rất lớn của Thầy toan phú thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó, nghe và tuân mạng lịnh Thầy.

Ngày mai các con còn nghe thêm nữa (là ngày 25-04-1926).

 


 

Q.1-61. Ngày 25-04-1926 (âl. 14-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn sắp đặt ngày Thiên Phong.

 

Ngày 25 Avril 1926 (14-03-Bính Dần).

Sắp Ðặt Ngày Thiên Phong

Lịch, con đã nghe đọc những lời Thầy dặn há?

Ngày mai lại để thêm một cái bàn dựa bên cửa sổ đằng trước ngó vô (tại nhà Anh lớn Lê Văn Trung) ở Chợ Lớn.

Cư nghe dặn, con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón. Cười....

Ðáng lẽ nó phải sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo nên Thầy không biểu.

Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt vô cho ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đắp mặt nó lại, biểu Ðức, Hậu đứng gần em kẻo xuất hồn nó té tội nghiệp.

Khi chấp cơ rồi xong xả, hai con mặc Thiên phục vào rồi thì nó mới leo lên.

Lịch, con viết một lá bùa Giáng Ma Xử, đưa cho Tắc nó cầm. Hai con mặc đồ thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ Lôi và Hộ Pháp về rồi Thầy biểu mặc vô thề mới đặng.

Mấy con mai sẽ nghe dạy thêm.

 

25-04-1926 (14-03-Bính Dần)

Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn Ngũ Lôi. Khi giáng rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị vị Ðầu Sư quì mà thề.

Cư khi đem ba bộ Thiên phục để vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên phục và ba cái ngai ấy rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quì trước bửu ngai của nó đặng Thầy vẽ phù vào mình, rồi biểu Giảng xướng lên "Phục vị", thì hai người leo lên ngồi. Cả thảy chư Môn Ðệ đều quì xuống; biểu Tắc nó leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy trục xuất chơn thần nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức xông hương tay của chúng nó. Như em giựt mình té thì đỡ, rồi mới biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai quì, đến trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu cúi ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:

"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch Nguyệt thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng: Làm tròn Thiên Ðạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là Môn Ðệ của Cao Ðài Ngọc Ðế; nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành Tả Ðạo; như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt".

Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy điều câu sau thì như vầy:

"Như ngày sau phạm Thiên Ðiều, thề có Hộ Pháp đọa Tam Ðồ bất năng thoát tục".

Rồi mới biểu Giảng xướng lại nữa "Phục vị" thì Nhị vị Ðầu Sư trở lại ngồi trên ngai, chư Môn Ðệ đều đến lạy mỗi người hai lạy.

Tới phiên các Môn Ðệ từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:

"Tên gì ... Họ vì ... Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ, đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Ðệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục".

Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy Nhị vị Ðầu Sư.

Cư hỏi Thầy: Các Môn Ðệ đều đến bàn Ngũ Lôi và Vi Hộ Pháp mà thề và đến lạy Nhị vị Ðầu Sư, còn Anh Chiêu thì thế nào?

Thầy sẽ đợi lòng sám hối của nó, vì đã lo sợ cầu khẩn Thầy mấy bữa rày. Nó cũng phải lạy như các Môn Ðệ khác vậy.

Mười một giờ rưỡi Thầy giáng cơ, phải biểu Lịch nó lập nghi cho có lễ phép. Nghe và tuân theo.

 


 

Q.1-62. Ngày 26-04-1926 (15-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn Phong Thánh lần đầu.

 

11 giờ 30 đêm 25 rạng 26 Avril (khuya 14 rạng 15 tháng 3 Bính Dần).

CAO ÐÀI

Hỉ chư Nhu,

Kim triêu dĩ đáo Thiên Trung Quang,
Am hiểu thế tình tánh đức nan.
Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.

Rán hiểu.

Ðức, Hậu: Phong vi Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ.

Phong Cư: Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ.

Phong Tắc: Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ.

Trung, Lịch: Ðã thọ sắc, cứ tước vị mà theo lịnh sắc mạng Ta.

Kỳ: Phong vi Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Ðạo Giáo Sư.

Bản: Phong vi Tiên Ðạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư.

Trung: Xin phẩm vị để như cũ và xin đừng cho chư Môn Ðệ lạy.

Ta nhận lời trước, còn điều sau phải tuân. Chư Môn đệ đồng quì lạy Thầy "xin thứ tội cho Ông Chiêu".

Chiêu thiếu đức thiếu tài.

Trung, con sợ ai?

Ta không vị ai.

Ta biết hơn ngươi.

Ta há không biết thương sao?

Ấy cũng vì thiếu đức.

Nó đã biết Ta.

Cư tuân lời Thầy đã truyền mà thi hành.

 

Ngày 26 Avril 1926.

CAO ÐÀI

Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, ai kiên? Ta chờ ngươi.

Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh? Ta đã nói người làm đầu Tam Giáo, đã bao phen Ta lập Ðạo sẵn cho, ngươi chê há.

Ta đã sở định, ngươi dám cải.

Chuyên quyền từ đấy bỏ tuồng xưa,
Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
Sám hối Ta cho tu ít tháng,
Tài hay tài múa chớ đua lừa.

 


 

Q.1-63. Ngày 29-04-1928 (âl. 10-03-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy "Cuộc đời khó khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu. Hễ bài càng khó thì đậu càng cao...".

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

Tòa Thánh, năm Mậu Thìn (1928).

THẦY

Các con.

Cư, Hiếu! Thầy thấy hai vợ chồng con chịu nhiều điều sầu thảm, Thầy mừng, mà cái mừng ấy lại đổ ra chứa chan giọt lụy!

Ðường đời khúc mắc chông gai là lẽ Thiên cơ đã định vậy; cái nơi để cho cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến kiến công lập vị mình chẳng khác nào con buôn trong buổi chợ. Cả sức lực, cả trí não tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy nên mới mất chơn linh, thất ngôi diệt vị.

Bởi vậy cho nên nhiều bực Thánh, Thần, Tiên, Phật cam lòng thủ phận chẳng dám vọng cầu đem thân vào cảnh đọa, nhưng mà chẳng tái kiếp thì như nhu sĩ trốn thi, thế nào mong mỏi địa vị ra cao thượng.

Cuộc đời khó khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu. Hễ bài càng khó thì đậu càng cao, đậu cao mới ra có giá. Thầy tưởng như nơi thế gian nầy có đứa con nào Thầy cưng trọng hơn hết thì là các con, nhưng mà chẳng lẽ Thầy làm giám khảo lại cấp nấp bài thi lén cho mỗi đứa thì cái đậu của các con có ra chi.

Lại nữa, Thầy biết trước rằng: Không cần giúp các con cũng dư sức đậu đặng, thì dường ấy nếu Thầy giúp, tức hại thể diện các con, chớ không giờ phút nào Thầy xa các con.

Các con chịu khổ hạnh là Thầy muốn vậy.

Nhà nghèo hạnh tốt ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt; cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh; tâm thành là để giồi trau tánh tục; lòng đạo đức quí hơn là miếng đỉnh chung; tố bần hàn tùy mình mà hành Ðạo, thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.

Thăng.

(Vì có người nghèo nên Thầy giáng cơ dạy).

 


 

Q.1-64. Ngày 28-06-1928 (âl. 11-05-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy làm đường cát trắng để ví với khổ hạnh.

 

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm

Tòa Thánh, Le 28 Juin 1928 (Ngày 11 tháng 5 Mậu Thìn)

THẦY

Các con.

Hiếu! Con nghe Thầy nói chuyện làm đường cát trắng con.

Thầy đố con biết làm sao cho đường đen ra trắng... Cười ...

Nghe con, nè làm theo nghe.

Ðổ đường đen vào một cái hủ thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hủ đường, còn một phần hủ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì là đường trở nên trắng; gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon rất đẹp đó con.

Cái khổ hạnh của con giống như đường đó con à. Con có biết Thầy khóc như con vậy chăng con?!

Nếu con không vậy làm sao đáng con cái của Thầy. Con chỉ nhớ rằng Thầy thương con là đủ. Ðặng thế gian yêu mến ắt Thầy phải ghét, mà Thầy ghét con thì còn chi con, con khá nhớ!

Thăng.

 


 

Q.1-65. Khổ Tâm Hành Ðạo của Ðức Cao Thượng Phẩm và Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu.

 

KHỔ TÂM HÀNH ÐẠO
Nhiều nỗi khổ tâm của Ðức Cao Thượng Phẩm xin kể dưới đây:

 

Xây Bàn
(Sơ khởi)

Thời kỳ Trời đến cứu thế tại Nam phương, năm Ất Sửu (1925).

Ðức Cao Ðài giáng cơ dạy chúng tôi phế đời hành Ðạo. Hai tôi vâng lịnh liền để trọn đức tin nơi Ðức Cao Ðài. Chúng tôi hết lòng hết dạ chỉ để tâm tôn sùng Ðấng Thiêng Liêng là Ðức Chí Tôn, nên hai tôi trọn vâng mạng lịnh phế đời hành Ðạo hồi năm 1926 (liền bỏ sở làm).

Khai Ðạo 14 tháng 10 Bính Dần (18-11-1926), mà chúng tôi hành Ðạo hồi năm Ất Sửu (1925), nghĩa là Ðức Chí Tôn khiến cho ba ông: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh ham mộ xây bàn đặng các Ðấng đến mở Ðạo.

Ông Cao Quỳnh Cư và Nguyễn Thị Hiếu vâng lịnh Chí Tôn phế đời hành Ðạo, bỏ sở làm và tém dẹp đồ đạc nhà cửa về một lượt với Chức Sắc cùng ngày 14-10-Bính Dần (1926).

Hành Ðạo tại chùa Gò Kén hơn 3 tháng, trả chùa Từ Lâm Tự Gò Kén, nhằm ngày 20-02-Ðinh Mão (23-03-1927). Dọn đồ dời chùa, thỉnh chư Phật về đất mới mua, hành Ðạo được 4 năm.... Bỗng đâu bão tố, đất bằng sóng dậy đưa tới làm khổ tâm chúng tôi hết sức buồn là không thể trở ra đời làm việc nữa, hổ thẹn với anh em làm việc trong sở, vì đã nhứt định phủi hết trần thế, công danh lợi lộc cũng chẳng màng, quyết chí tu hành để làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn sai khiến mà thôi.

Nghĩ lại hồi còn rừng rậm sầm uất không ai về, để Ðức Cao Thượng Phẩm chỉ dẫn người Miên phá rừng, đánh gốc, phá chồi, tạo tác Ðền Thánh tạm, nào là Ðông Lang, Tây Lang, Hậu Ðiện, nhà Thiên Phong, nhà ngang dãy dọc, nhà Dưỡng Lão, nhà trường, nhà khách.... tạo đâu đó xong xuôi rồi Ðức Cao Thượng Phẩm bị một trận khảo đảo khá dữ dội là: Có một nhóm người thiếu thương yêu gieo ác cảm hội nhau dưới Thủ Ðức, nước lã khuấy nên hồ, họ đồng lòng về Tòa Thánh đuổi Ðức Cao Thượng Phẩm kỳ 24 giờ ra khỏi Tòa Thánh, nếu không thì cột trong rừng bắn.

Làm Ðạo lúc mới phôi thai rất khổ sở trăm bề, có kẻ nghịch rình mò âm mưu với nhau hợp lại xúi giục gây rối, làm loạn, họ đồng lòng với nhau đuổi hai vợ chồng Thầy Tư (tức Cư và Hiếu).

Buồn cười... tuồng đời lạnh nhạt, thôi, họ dữ quá! Chúng tôi về Thảo Xá Hiền Cung là nơi căn cội của Chí Tôn dạy cất trước, nên Thảo Xá Hiền Cung là gốc.

Thưa quý Ngài, hai tôi bị đại khảo, lớp thì bị người bạc đãi, xua đuổi, lớp bị húng hiếp đủ điều, lớp thì khổ tâm trong gia đình, trong một năm chết ba người yêu mến nhất của đời sống tôi: chồng mất tháng 3, con mất tháng 8, mẹ mất tháng 9 năm Kỷ Tỵ (1929).

Tôi bơ vơ có một mình, khóc thầm tủi lén, nước mắt không ráo, quên ăn bỏ ngủ. Than ôi! Trong lúc tôi lâm nguy nhờ có Anh Cả, Ðức Thượng Ðầu Sư và Chị Lớn Thượng vô ra khuyên lơn tôi. Anh Cả gởi thơ cho Nữ phái các làng kế cận hạt Tây Ninh. Anh Cả dạy Nữ phái tới lui thường thường chuyện vãn với tôi đặng giải khuây trong cơn sầu não, thật không có bút mực nào cạn tỏ cho hết, nhiều nỗi đứt từ đoạn ruột (hồi năm 1929) thật là mạch sầu khó nỗi cản ngăn, tâm chí không toan dằn đặng lụy!!!

Thưa quý Ngài, bởi vì do theo luật của Tạo Hóa, hễ đàn bà liễu yếu đào thơ, phải nương dựa dưới bóng của ông chồng, chi chi cũng nhờ ông chồng, những khi đói rách, lành, muôn việc đều nhờ ông chồng mà thôi.

Trái lại trong gia đình chết hết, bỏ tôi ở lại có một mình, chỉ nương náu với mẹ già như trái muồi chín cây (Bà Nội An).

Tôi cũng phụng sự cho má tôi đến năm 1946 má tôi qui liễu.

 

Hết Phần Ðạo Sử Xây Bàn

 

 

 


 )
 )(
 __)_(__
 __(_____)__
(((_________)))
 )    ׀    (

 

 

 

 

 

ÐẠO SỬ

Quyển II
Từ năm Ất Sửu (1925)
đến năm Kỷ Tỵ (1929)

 

 

 


 

LỜI TỰA

Với bằng chứng minh bạch, có nhiều vị hỏi tôi muốn xem Thánh giáo của Ðức Chí Tôn đến khai Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ mà không biết tìm ở đâu có?

Tôi trả lời theo câu hỏi nầy: Trọn bộ Thánh giáo Thầy đến khai Ðạo hồi năm 1926, 1927, 1928, 1929 khi Ðức Thượng Phẩm qui Thiên 1929 thì tôi chuyển dâng lên Ðức Hộ Pháp tất cả bổn chánh là 15 tập 100 pages, tôi chỉ còn bổn thảo mà thôi, nhưng mấy năm về trước, thuyền Ðạo không an lái nên bị mối ăn lạc mất rất nhiều, hiện nay tôi chỉ còn lưu giữ lại một phần ít.

Mặc dầu còn ít, tôi nghĩ vì cơ truyền Ðạo do nơi Thánh giáo để Chức Sắc có tài liệu đặng khi hành Ðạo đem phổ thông chơn đạo của Thầy cho đời thấy cơ huyền diệu của Chí Tôn, Phật Mẫu cùng các Ðấng Thiêng Liêng đến mở Ðạo kỳ ba nầy.

Hôm nay tuổi tôi đã quá thất tuần, tôi vẫn còn tinh thần đầy đủ sức khoẻ, trước giờ tôi từ giã cõi trần, nên tôi tìm được tài liệu là Thánh giáo của các Ðấng Thiêng Liêng để lập thành tập Thánh giáo nầy, kính hiến cho quý Chức Sắc để làm kỷ niệm của báu Thiêng Liêng hầu hiểu biết lịch sử của các Ðấng đã dày công đến mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Á Ðông nầy.

Trước khi dứt hơi thở cuối cùng của tôi, tôi xin góp chút công quả hiến tập Thánh giáo nầy cho Ðạo để làm kỷ niệm.

Trân trọng kính hiến,

Ngày 15 tháng 10 năm Ðinh Dậu.

Nữ Chánh Phối Sư
(Ấn ký)
HƯƠNG HIẾU

 


 

Q.2-001. Khai Ðạo Nơi Chánh Phủ

 

KHAI ÐẠO NƠI CHÁNH PHỦ

Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1926), ông Cựu Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh Phủ.

Tờ Khai Ðạo đến ngày Mùng một tháng chín (07-10-1926) mới gởi lên Chánh Phủ cho quan Nguyên Soái Nam Kỳ là ông Le Fol. Trong tờ nầy có 28 người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo.

Tờ Khai ấy làm bằng chữ Lang Sa, phiên dịch ra như vầy:

 

Sài Gòn, Le 7 Octobre 1926.

Kính cùng Quan Thống Ðốc Nam Kỳ Sài Gòn,

 

Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho Quan lớn rõ:

Vốn từ trước, tại cõi Ðông Pháp có ba nền Tôn Giáo lớn là: Thích Giáo, Lão Giáo, và Khổng Giáo, Tiên Nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Ðạo ấy, lại nhờ do theo Tôn chỉ quý báu của các Chưởng Giáo truyền lại mới được an cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: "Gia vô bế hộ, lộ bất thập di", chỉ nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến đổi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.

Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy duyên cớ sau nầy:

  1. Những người hành Ðạo đều phân chia ra nhiều Ðạo, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ Tôn chỉ của Tam Giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Ðấng Tạo Hóa.

  2. Lại canh cải mối chánh truyền của các Ðạo ấy, làm cho thất chơn truyền.

  3. Những dư luận phản đối nhau về Tôn Giáo, mà ta thấy hằng ngày cũng tại bả vinh hoa và lòng tham lam của nhân loại mà ra, nên chi người An Nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.

Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An Nam, vì căn bổn, vì Tôn Giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam Giáo lại làm một (Quy nguyên phục nhứt) gọi là Ðạo Cao Ðài hay là Ðại Ðạo.

May mắn cho chúng sanh, Thiên tùng Nhơn nguyện, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế hằng giáng Ðàn dạy Ðạo và hiệp Tam Giáo lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Nam nầy.

Tam Kỳ Phổ Ðộ nghĩa là Ðại Ân Xá lần thứ ba, những lời nói của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ dạy chúng tôi đều cốt để truyền bá Tôn chỉ Tam Giáo.

Ðạo Cao Ðài dạy cho biết:

  1. Luân lý cao thượng của Ðức Khổng Phu Tử.

  2. Ðạo đức của Phật Giáo và Tiên Giáo là làm lành lánh dữ, thương yêu nhân loại, cư xử thuận hòa mà lánh cuộc loạn ly giặc giã.

Chúng tôi gởi theo đây cho quan lớn nghiệm xét:

  1. Một bản sao lục Thánh ngôn của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

  2. Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.

Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại được cộng hưởng cuộc hòa bình như buổi trước. Ðược như vậy, chúng sanh sẽ thấy đặng thời kỳ mới mẻ cực kỳ hạnh phúc không thế nào tả ra đặng.

Chúng tôi thay mặt cho nhiều người An Nam, mà đã nhìn nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Ðạo Tịch ghim theo đây, đến khai cho quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ thông Ðại Ðạo khắp cả hoàn cầu.

Chúng tôi xin quan lớn công nhận Tờ Khai Ðạo của chúng tôi.

Ký tên:  
- Mme Lâm Ngọc Thanh: Nghiệp chủ ở Vũng Liêm.
- M. Lê Văn Trung: Cựu Thượng Nghị Viện,
thưởng thọ Ngũ Ðẳng Bửu Tinh (Chợ Lớn).
- Lê Văn Lịch: Thầy tu - làng Long An (Chợ Lớn).
- Trần Ðạo Quang: Thầy tu - làng Hạnh Thông Tây (Gia Ðịnh).
- Nguyễn Ngọc Tương: Tri phủ - chủ quận Cần Giuộc.
- Nguyễn Ngọc Thơ: Nghiệp chủ - Sài Gòn.
- Lê Bá Trang: Ðốc Phủ Sứ - Chợ Lớn.
- Vương Quan Kỳ: Tri Phủ sở Thuế Thân - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Kinh: Thầy tu - Bình Lý Thôn, Gia Ðịnh.
- Ngô Tường Vân: Thông Phán - Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Ðạt: Nghiệp chủ - Sài Gòn.
- Ngô Văn Kim: Ðiền chủ - Ðại Hương Cả, Cần Giuộc.
- Ðoàn Văn Bản: Ðốc Học trường Cầu Kho.
- Lê Văn Giảng: Thơ toán hảng Ippolito - Sài Gòn.
- Huỳnh Văn Giỏi: Thông Phán sở Tân Ðáo - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Tường: Thông Ngôn sở Tuần Cảnh - Sài Gòn.
- Cao Quỳnh Cư: Thư ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- Phạm Công Tắc: Thư ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- Cao Hoài Sang: Thư ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- Nguyễn Trung Hậu: Ðốc Học Trường Tư Thục Ða Kao.
- Trương Hữu Ðức: Thư ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- Huỳnh Trung Tuất: Nghiệp chủ Chợ Ðuổi - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Chức: Cai Tổng - Chợ Lớn.
- Lại Văn Hành: Hương Cả - Chợ Lớn.
- Nguyễn Văn Trò: Giáo Viên - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Hương: Giáo Viên - Ða Kao.
- Võ Văn Kỉnh: Giáo Tập - Cần Giuộc.
- Phạm Văn Tỷ: Giáo Tập - Cần Giuộc.

 

Phụ ghi: Tài liệu nầy có trong quyển Tiểu Sử Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG

 


 

Q.2-002. Phổ Ðộ Lục Tỉnh

 

PHỔ ÐỘ LỤC TỈNH

Khai Ðạo xong rồi, việc phổ độ Lục Tỉnh, kể từ tháng 9 năm Bính Dần chia ra như vầy:

  1. Mấy ông Lê Văn Trung, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Ðạo Quang, lo phổ độ trong mấy tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Ðốc, Hà Tiên, Rạch Giá. Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc phò loan.

  2. Mấy ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, Yết Ma Luật lo phổ độ trong mấy hạt: Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre. Ông Nguyễn Trung Hậu và ông Trương Hữu Ðức phò loan.

  3. Mấy ông Lê Bá Trang, Vương Quan Kỳ, Yết Ma Nhung lo phổ độ trong mấy hạt: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Ðịnh, Biên Hòa, Bà Rịa, Sa Ðéc. Ông Cao Quỳnh Diêu và ông Cao Hoài Sang phò loan.

  • Ông Nguyễn Văn Tương và ông Nguyễn Văn Kinh là người rõ thông đạo lý, lại đi khắp nơi giảng Ðạo để độ rỗi người quen.

Kết quả cuộc phổ thông nầy rất nên long trọng, chỉ có một tháng mấy mà kể ra có mấy vạn người nhập môn cầu Ðạo.

Mùng 10 tháng 10 là ngày tạm ngưng việc phổ độ, để lo sắp đặt lễ Khánh Thành Thánh Thất ở Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh).

 

Sự tích cảnh Chùa Từ Lâm Gò Kén

Cảnh chùa nầy vốn của Hòa Thượng Như Nhãn, ở chùa Giác Hải (Chợ Gạo) quyên tiền trong Bổn Ðạo của ông mà lập ra.

Tháng 7 năm Bính Dần (Aout 1926), ông tình nguyện dâng chùa ấy cho Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ để làm Thánh Thất. Khi ấy chùa cất mới vừa xong, nhưng chưa sơn phết, chưa tráng xi măng và chung quanh chùa vẫn còn bụi cây sầm uất.

Ông Nguyễn Ngọc Thơ phải ra tiền lo việc ấy cho hoàn tất, lại còn dựng cốt Phật Thích Ca và khai thác các việc khác như là: Ðốn cây, trồng kiển, đắp đường cho xe hơi vô tận chùa và cất Tịnh Thất...

 

Ngày khai Thánh Thất

Ðêm 14 rạng mặt Rằm tháng 10 năm Bính Dần (18 Novembre 1926) là đêm làm Lễ Khánh Thành Thánh Thất Từ Lâm Tự.

Ông Lê Văn Trung thay mặt cho Bổn Ðạo mời đủ các Chức Sắc, Viên quan Lang Sa và An Nam đến dự lễ ấy. Chư Bổn Ðạo và Chư Thiện Nam Tín Nữ hiện diện kể đến hằng muôn. Hội Thánh tiếp đãi khách một cách ân cần trọng hậu. Ngoài cúng phẩm ra thì không thâu tiền bạc gì cả.

 

Dời Thánh Thất về làng Long Thành Tây Ninh

Vì cuộc biến nọ, vì trường công kích kia mà Hòa Thượng Như Nhãn ngã lòng và Bổn Ðạo của ông đã cúng tiền cất Từ Lâm Tự cũng vì đó mà buộc ông đòi Chùa lại.

Hội Thánh buộc phải giao Chùa lại cho ông Như Nhãn đoạn mới mua một sở rừng 140 mẫu giá 25 ngàn tọa lạc ở làng Long Thành. Khai phá được chừng 10 mẫu rồi mới cất Tòa Thánh tạm mà an bài nơi đó kể từ tháng 2 năm Ðinh Mão.

Lúc bấy giờ, Ðạo phải trải qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc Ðạo, nhứt là ông Cao Quỳnh Cư đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài (đời Pháp thuộc).

Ðến đây, tôi xin ngừng bút, tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ cho quý độc giả rõ biết sơ lược về gốc tích Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Ðầu Sư THƯỢNG TRUNG NHỰT

Sài Gòn, Dimanche 24 Octobre 1926.
(Ngày 18-09-Bính Dần)

 


 

Q.2-003. Ngày 24-10-1926 (15-09-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Thầy là Chư Phật, Chư Phật là Thầy... Các con là Chư Phật, Chư Phật là các con...".

 

Chùa Phước Linh Tự

THÍCH CA MÂU NI PHẬT TÁ DANH
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Vì Tân Luật chưa ra nên Thầy phải giải, đã có Thánh Tượng Thầy, thì là cốt Ngọc Hoàng còn để lại chẳng nghĩa chi hết. Thầy nói cho các con rõ, vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì Thầy ngồi trước, vì trước lớn là phải vậy.

Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói, một chơn thần mà biến hóa Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại. Thầy là Chư Phật, Chư Phật là Thầy.

Các con là Chư Phật, Chư Phật là các con. Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Nên Thầy khai Bát Quái mà tạo thành Càn Khôn Thế Giái, nên mới gọi là Pháp. Pháp mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật, rồi mới tới có người nên gọi là Tăng.

Thầy là Phật của cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.

Thầy lập Phật Giáo vừa khi khai Thiên lập Ðịa, nên Phật Giáo là trước, kế Tiên Giáo rồi mới tới Nho Giáo, nay Hạ Ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.

Tỷ như lập Tam Giáo qui nhứt thì:

Nho là trước,
Lão là giữa,
Thích là chót.

Nên Thầy phải ngồi sau Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí chính là Niết Bàn đó vậy.

Còn như Hộ Pháp đã xuống trần rồi còn thờ chi nữa, nên các con nên lập ra ba bài vị đề:

Hộ Pháp
Thượng Phẩm bên hữu Thượng Sanh bên tả

Còn cổ lễ thì cúng: Rượu là Khí, Bông là Tinh, Trà là Thần.

 


 

Q.2-004. Thiên Phong

 

THIÊN PHONG

Chưởng Pháp

Tương (Minh Sư) Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thượng" Ngày 24-07-Bính Dần.
Như Nhãn (Huề Thượng Giác Hải) Quan Pháp Truyền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thái"  
Thụ (Minh Sư ở chùa Vĩnh Nguyên Tự) Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Ngọc" Ngày 10-9-Bính Dần.

Ðầu Sư

Lê Văn Trung Thượng Trung Nhựt Rằm tháng 3 Bính Dần.
Lê Văn Lịch Ngọc Lịch Nguyệt Rằm tháng 3 Bính Dần.
Thiện Minh Thái Minh Tinh Ngày 13-10-Bính Dần.

Phối Sư (Phái Ngọc)

Lê Bá Trang Ngọc Trang Thanh Mùng 3 tháng 7 Bính Dần.

Phối Sư (Phái Thượng)

Tương (Phủ) Thượng Tương Thanh Ngày 17-05-Bính Dần.
Hóa Thượng Hóa Thanh Ngày 19-08-Bính Dần.

Phối Sư (Phái Thái)

Nguyễn Ngọc Thơ Thái Thơ Thanh Ngày 02-07-Bính Dần.

Giáo Sư (Phái Ngọc)

Kinh Ngọc Kinh Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Vân Ngọc Vân Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Ðạt Ngọc Ðạt Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Mùi Ngọc Mùi Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Thông Ngọc Thông Thanh Ngày 28-09-Bính Dần.

Giáo Sư (Phái Thượng)

Kỳ Thượng Kỳ Thanh
Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Ðạo Giáo Sư ( Rằm tháng 3 Bính Dần).
Ngày 14 tháng 5 Bính Dần.
Kim Thượng Kim Thanh Ngày 17 tháng 5 Bính Dần.
Chức Thượng Chức Thanh Ngày 19 tháng 8 Bính Dần.
Hành Thượng Hành Thanh Ngày 29 tháng 8 Bính Dần.
Vinh Thượng Vinh Thanh Ngày 09 -09 Bính Dần.
Ðịnh Thượng Ðịnh Thanh Ngày 28 tháng 9 Bính Dần.
Hoài Thượng Hoài Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Hoài Thượng Hoài Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Hoài Thượng Hoài Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Lai Thượng Lai Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Son Thượng Châu Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Búp Thượng Búp Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Viễn Thượng Viễn Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Tín Thượng Tín Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Nhơn Thượng Nhơn Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.

Rút một đoạn Thánh giáo ngày Rằm tháng 10 Bính Dần (Vendredi Novembre 1926):

- Các con cứ lấy tên mình mà lót giữa và để chữ Thượng trước, duy có Son tên chữ Nôm, Thầy sửa lại là Châu ...

Giáo Sư (Phái Thái)

Nhung Thái Nhung Thanh Rằm tháng 7 Bính Dần.
Luật Thái Luật Thanh 22 tháng 7 Bính Dần.
Bính Thái Bính Thanh 07 tháng 8 Bính Dần.
Giáo Hữu (Phái Thượng)
Giỏi Thượng Giỏi Thanh 23-8-Bính Dần.
Bản Thượng Bản Thanh
(Tiên Ðạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư, Rằm tháng 3 Bính Dần).
25-8-Bính Dần
Giảng Thượng Giảng Thanh 25 tháng chạp Bính Dần.
Phạm Văn Thấp Thượng Thấp Thanh 17-09-Bính Dần.
Huỳnh Văn Sơn Thượng Sơn Thanh 17-09-Bính Dần.
Lê Văn Cúc Thượng Cúc Thanh 17-09-Bính Dần.
Nguyễn Văn Phương Thượng Phương Thanh 17-09-Bính Dần.
Võ Văn Kinh Thượng Kinh Thanh 17-09-Bính Dần.
Bùi Văn Thiên Thượng Thiên Thanh 17-09-Bính Dần.
Nguyễn Văn Cúc Thượng Cúc Thanh 17-09-Bính Dần.
Nhơn Thượng Nhơn Thanh 27-09-Bính Dần.
Nghi Thượng Nghi Thanh 27-09-Bính Dần (Rạch Giá).
Lân Thượng Lân Thanh 02 tháng 09 Bính Dần (Vũng Liêm).
Bích Thượng Bích Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần (Cần Thơ).
Huỳnh Văn Tuất Thượng Tuất Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần (SàiGòn).
Trịnh Văn Kỳ Thượng Kỳ Thanh 21-10-Bính Dần (Tây Ninh).
Sâm Thượng Sâm Thanh 26-10-Bính Dần (Chợ Lớn).
Tu Thượng Tu Thanh 26-10-Bính Dần (SàiGòn).
Ty Thượng Ty Thanh 26-10-Bính Dần (Cần Giuộc).
Tiếp Thượng Tiếp Thanh 26-10-Bính Dần (Cần Giuộc).
Tường Thượng Tường Thanh 26-10-Bính Dần (SàiGòn).
Bùi Văn Dứa Thượng Dứa Thanh 28-10-Bính Dần (Tây Ninh).
Kiệt Thượng Kiệt Thanh 30-10-Bính Dần.

Lễ Sanh

Bản   14-05-Bính Dần.
Giảng   14-05-Bính Dần.
Tường   14-05-Bính Dần.
Giỏi   14-05-Bính Dần.
Nhơn   17-05-Bính Dần.
Kinh   17-05-Bính Dần.
Tỵ   17-05-Bính Dần.
Tiếp   17-05-Bính Dần.
Tuất   23-08-Bính Dần.
Nguyễn Văn Trò   25-08-Bính Dần.
Hương   25-08-Bính Dần.
Của   26-10-Bính Dần.
Học   26-10-Bính Dần.
Huỳnh Văn Ðáng   26-10-Bính Dần.
Qui   26-10-Bính Dần.
Ðờn   26-10-Bính Dần.
Thuận   26-10-Bính Dần.
Phi   26-10-Bính Dần.
Bảo   26-10-Bính Dần.
Trần Văn Xương   26-10-Bính Dần.
Trần Văn Uông   26-10-Bính Dần.
Tạ (Trần Văn Tạ)   26-10-Bính Dần.
Hoằng    
Mỹ Ngọc    
Mắc Mục Thanh Phụ Ðạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân 26-10-Bính Dần.

Phò Loan

Ðức, Hậu Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ  
Nghĩa, Tràng Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ  
Tươi, Chương Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ  
Kim, Ðãi Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ  
Mai, Nguyên Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ  
Mạnh, Phước Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ  
Cao Hoài Sang Thượng Sanh.  
Phạm Công Tắc Hộ Pháp
(Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)
 
Cao Quỳnh Cư Thượng Phẩm
(Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)
 

Nữ Phái

Lâm Thị Thanh Nữ Giáo Sư,
lấy Thiên Ân là Hương Thanh.
 
Ca Thị Thế Phó Giáo Sư,
lấy Thiên Ân là Hương Thế.
 
Ðường Thị Ðã thọ Thiên sắc, cứ giữ địa vị mình.  
Ðạo Minh: "Cô Sáu" Nữ Giáo Sư Mùng 4-11-Bính Dần (Chùa Hạnh Thông Tây).

 

Trong tập nầy chưa biên tên những vị đi tình nguyện phổ cáo Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

 


 

Q.2-005. Bài đọc cầu cơ: Bài Trời Còn, Bài Mừng Thay.

 

BÀI TRỜI CÒN (Bài đọc cầu cơ)

Trời còn sông biển đều còn,
Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh Minh trong tiết vườn xuân,
Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.
Ðường đi trên núi dưới đèo,
Lặng tìm cao thấp phải trèo chông gai.
Phận làm con thảo há nài,
Biết thương Tiên, Phật, Bồng Lai mà tìm.
Xem qua xét lại cổ kim,
Một bầu Trời Ðất thanh liêm chín mười.
Vàng trau ngọc chuốt càng tươi,
Bền lòng theo Phật cho người xét suy.
Thần Tiên vốn chẳng xa chi,
Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh.

 

BÀI MỪNG THAY

Mầng thay chi xiết nỗi mầng,
Hào quang chiếu diệu ngàn tầng khôn trung.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.
Môn sanh thành kỉnh chực chầu,
Tửu trà huê quả mừng cầu Tiên Ông.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Ðèn lòa ngọn lửa tựa rồng phun châu.

Lạy mầng.

 

Phụ ghi: Câu thứ hai của bài Mừng Thay ...ngàn tầng khôn trung. có thể là ...ngàn tầng không trung.

 


 

Q.2-006. Ngày 16-11-1926 (âl. 12-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy Lập Lễ Thánh Thất.

 

Mardi 16 Novembre 1926 (12-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Lập Lễ Thánh Thất

Phải làm một Nghi Án trước Ðiện day mặt vô bảy Ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc chùa, kết hàng cho đẹp. Nơi ấy phải kín, bốn phía ra vô có màn, Thầy giáng cơ tại Án ấy nghe à!

Lễ Thánh Thất, chia ra làm lễ khách xuất thâu. Vậy thì Thầy nói về lễ trước.

Việc lễ: Thầy giao chánh sự cho Trang, phó sự cho Nhung; phụ sự có Ý nghe à!... Như Ý không chịu thì Lịch phải thế. Vậy thì chánh sự là Trang làm đầu, Thầy lại thêm ba vị nữa cho các con rộng dùng là: Mùi, Vân, Ðạt.

Thầy lại hỏi thêm 12 đứa nữa, ai tình nguyện.

Lê Văn Sanh, Dương Văn Hoài
Nguyễn Xuân Quang, Sơn
Lê Thế Vĩnh, Hườn
Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.

Về việc khách: Khách thì Tương là chánh sự, Luật là phó sự. Thầy muốn đem Hoài vô đặng không Lịch? Voi là phụ sự, Lại, Son, Thành là giúp. Thầy hỏi 12 đứa tình nguyện:

Giỏi, Bản, Tuất, Tiếp
Trò, Giảng, Học, Kỳ
Tường, Hơn, Kính, Ðơn

Về thâu: Thì Thơ, Như Nhãn, Huệ Quang.

Thầy hỏi hai đứa Châu, Lục... Châu Tuấn.

Về việc xuất: Xuất thì Lịch, Xài, Hóa (Phủ Hóa, Cần Ðước). Thầy hỏi hai đứa Ký Lục... Kiều, Vĩnh.

Nghe hành lễ con Trang.

Chưởng Pháp, Ðầu Sư: Thầy định ba ngôi Chưởng Pháp, ba ngôi Ðầu Sư đều có vị.

Phối Sư: Còn Phối Sư thì Trang, Tương, Thơ là chánh, còn ba mươi ba vị nữa thì tùy theo ngày phong sau trước đứng nối theo đó.

Giáo Sư: Rồi tới 72 Giáo Sư, cũng tùy theo ngày thọ sắc mà phân sau trước.

Giáo Hữu: Kế nữa là 3.000 Giáo Hữu cũng tùy theo Thiên Phong mà đứng theo hàng ngũ phái Thượng, phái Thái, phái Ngọc vậy.

Phò Loan: ... Tiếp nối theo sau ngay chính giữa nơi bàn Hộ Pháp thì: Ðức, Hậu, Tràng, Nghĩa. Bên mặt thì: Mạnh, Phước, Mai, Nguyên. Bên trái thì: Ðãi, Kim, Tươi, Chương.

Hộ Pháp: Còn lại để dựa bên bàn Hộ Pháp hai cái ghế rồi làm hai cây phướn đề: Thượng Phẩm, Thượng Sanh.

Thượng Phẩm: Bên mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm.

Thượng Sanh: Bên trái Hộ Pháp thì là Thượng Sanh.

Ðưa cây Thượng Phẩm cho Mùi, cây Thượng Sanh cho Vĩnh cầm hầu hai bên.

Trấn cờ Ngũ phương: tại Ðông phương, Tây phương, Nam phương, Bắc phương lựa 12 đứa Ðồng nhi cầm cờ, còn giữa thì giao cho Hậu, Nghĩa, Ðức.

Lịch hiểu à? Khi hành Ðại Lễ cho Thầy rồi thì Lễ Sanh xướng: "Thiên Phong hoán tẩy", cả thảy đều ra rửa mặt mày cho tinh sạch. Chừng xướng "Chỉnh túc y quan" thì cả thảy phải thay Thiên phục.

Lễ Sanh xướng "Lập vị" đứng theo hàng ngũ cũ như trước. Hành lễ y như tại chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch. Còn Nữ phái thì đều phải mặc đồ trắng trước hành lễ.

Thiên Phong Nữ Phái: Thì Cư, Tắc phải vào Nghi Án phò lập Tịch Ðạo phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và lập Tịch Ðạo luôn nữa nghe.

Trấn Thần: Chừng mặc Thiên phục rồi thì Cư, con chấp bút nhang cho Thầy trấn Thần mỗi người và nơi mình của chư Thiên Phong rồi mới hành lễ.

Nhớ biểu Nam phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng cấp chúng nó cho tử tế chớ không đặng lộn xộn.

Hành lễ: Còn bao nhiêu Môn Ðệ đứng tiếp theo sau. Thầy dặn, hành lễ rồi thì biểu Lễ Sanh xướng "Thiên Phong Phò Loan" đặng Thầy lập "Phật truyền Chánh pháp". Cư, Tắc phải để Thiên phục vậy phò cơ nghe. Thầy sẽ giao nhạc cho Mỹ Ngọc và lễ, Nhơn.

 

Phụ ghi: (*1) Nguyên bản chánh in là Ngày 16 Novembre 1926 (23-06-Bính Dần), đối chiếu với LỊCH THẾ KỶ XX (1901 -2000) Ấn bản năm 1976, nhà xuất bản PHỔ THÔNG - HÀ NỘI ghi Ngày16 Novembre 1926 ngày âm lịch là 12-10-Bính Dần.

 


 

Q.2-007. Ngày 17-11-1926 (âl. 13-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy Lập Lễ Thánh Thất.

 

Mercredi 17 Novembre 1926 (13-10-Bính Dần)

 

Khi Môn đệ mặc đồ thường vào con cũng phải sắp đặt địa vị chúng nó.

Tụng kinh hành lễ thường vừa rồi, con biểu Cư, Tắc rửa mặt, rửa tay cho tinh khiết, biểu chúng nó vào nơi Nghi Án cho Thầy phong sắc chư Môn Ðệ Lục Tỉnh xong kế lập Nữ phái. Con phải giúp em con là Ðường Thị, Lâm Thị, với Ca Thị lập vị bên Nữ phái cho trang hoàng.

Chừng Thầy thăng, biểu hai đứa nhỏ ra đứng nơi bàn Hộ Pháp nơi cũ, chừng Lễ Sanh xướng "Chỉnh Túc Y Quan" thì biểu 12 đứa phò loan sắp ba hàng kế đó, biểu Ðạt đi.

Kế đó là Tắc, Cư, Sang đi hai bên, nữa thì ba vị Chưởng Pháp (biểu Nhàn theo hộ Thụ). Kế nữa thì ba vị Ðầu Sư (biểu Tạ theo Trung, còn Hoằng theo Thiện Minh). Kế nữa ba vị Chánh Phối Sư, kế nữa Chức Sắc đi ba đứa, ba đứa ra thay đồ Thiên phục. Khi đặng nửa giờ phải đổ chuông ba hiệp. Chờ tới hiệp chót biểu Lễ Sanh xướng "Lập vị" thì lại đi như nãy mà trở vào. Nhớ biểu hai đứa cầm phướn Thượng Phẩm, Thượng Sanh đi gần bên Cư, Sang.

Vào lập vị hành Ðại Lễ như buổi Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch à ... là đã hết một đêm đầu rồi.

Kế đêm sau, thì là đêm Thiên Phong cho cả chư Môn đệ và là đêm các con phải thành tâm trai giới cho Thầy lập Pháp Chánh Truyền.

Ðêm thứ ba, các con cũng lập vị cúng thường ngày, xong hai đứa nhỏ mặc Thiên phục vào Nghi Án cho Thầy giáng rồi việc lễ.

Khách: .... Còn việc khách thì, Tương con phải chia 12 đứa phụ sự ra làm ba ban. Một ban 4 đứa đãi bọn Thượng lưu và Lang Sa; một ban đãi bọn Trung lưu; một ban đãi bọn Hạ lưu; song phải cắt ba vị Phó phụ sự ra ba ban đặng cai quản. Còn con thì lo việc tiếp các quan Lang Sa.

Việc phòng trù con cũng nên sắp đặt, nhứt là đừng khi khiếm lễ cùng ai hết.

Về việc xuất: Tới việc xuất thì ba vị chấp sự mỗi đều ký giấy tử tế cho đủ ba người mới cho xuất tiền ... cười. Thầy làm như vậy đặng dự phòng lãng phí nghe à.

Về việc thâu: Còn sự thâu, Trang con khéo tính lắm. Thầy khen và cám ơn con; song phải lo thu xếp cho em Thơ con nó bớt tốn kém tội nghiệp nghe con.

 

Phụ ghi: (*1) Nguyên bản chánh in là Ngày 17 Novembre 1926 (24-10-Bính Dần), đối chiếu với LỊCH THẾ KỶ XX (1901 -2000) Ấn bản năm 1976, nhà xuất bản PHỔ THÔNG - HÀ NỘI ghi Ngày 17 Novembre 1926 ngày âm lịch là 13-10-Bính Dần.

 


 

Q.2-008. Ngày 30-10-1926 (âl. 24-09-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Thầy đã lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con...".

 

Le 30 Octobre 1926 (24-09-Bính Dần)

THẦY

Các con! Thầy đã lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à!

Thầy lại qui Tam Giáo, lập Tân Luật trong Rằm tháng 10 có Ðại Hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất, các con hay à!

Sự tế tự chế sửa theo Tam Kỳ Phổ Ðộ cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!

Thầy nhập ba Chi lại một nhà, Thầy là Cha Chưởng Quản, hiểu à!

Thầy phải buộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!

Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các con sanh nạnh nhau, giống tựa hồ chia phe phân phái, là điều đại tội trước mặt Thầy vậy, nghe à!

Các con phải ngưng việc mà chung lo trong Ðại Hội (là Rằm tháng 10 Bính Dần, Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh).

 


 

Le 30-10-1926 (24-09-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn đệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ.

Thầy biểu Hiếu vào nghe, Thầy mượn một chút. Con lên kêu Nhiều đến với con đặng nghe Thầy dạy việc nhà. Chư Tín nữ cầu Ðạo đắc vấn.

Hiếu, Nhiều, hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh, từ đây Cư, Tắc phải lo Ðạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy. Thầy lấy làm chua xót mà Ðạo là trọng mới biết liệu sao?

Hiếu bạch: Thưa Thầy con vâng. (1)

Nhiều, sao con? (Nhiều bạch Thầy còn mẹ già).

Nó đi theo với con, mặc kệ nó để đó cho Thầy. Con cứ tuân mạng lịnh Thầy mà thôi. Thầy ban ơn cho con.

Hiếu, con phải chăm nom gìn giữ em con.

 

(1) Xem Tiểu Sử Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu.
Dẫn giải:
Trước khi mở Ðạo, Thầy giáng dạy hồi còn dưới Sài Gòn.

 


 

Q.2-009. Ngày 18-11-1926 (âl.14-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo của Ðức Chí Tôn khai Tịch Ðạo Nữ phái.

 

Jeudi le 18 Novembre 1926 (14-10-Bính Dần)
Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự ) Tây Ninh.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ,

Nữ phái nghe Thầy khai Tịch Ðạo:

"Hương tâm nhứt phiến cận Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn".

Lâm thị: phong vi Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Thanh.

Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Ca.

Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai cứ giữ địa vị mình, còn cả chư Ái Nữ Thầy sẽ lập Ðại hội cho đủ mấy vị, rồi phong sắc một lần; Thầy còn đợi Minh Lý hiệp nữa, nghe à!

Thầy ban ơn cho các con.

Cứ hành lễ theo lời dặn.

 


 

Q.2-010. Ngày 19-10-1926 (âl.15-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo Ðức Chí Tôn quở trách "... Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy...".

 

Vendredi, le 19 Novembre 1926 (15-10-Bính Dần)

THẦY

Cả chư Môn Ðệ ngu, ngu, ngu.

Thầy lập phép để làm chi. Thầy dạy sắp đặt lễ.... làm không trúng.

Cả chư Môn Ðệ nam nữ hầu Thầy đặng phân hàng ngũ cho nghiêm trang.

Thái Ðầu Sư ? Tương đâu?

Tiếp theo: Các con nghe,

Tuy vân Thầy dùng phép thử Thánh mặc dầu, chẳng lẽ một vị Thiên Tước mà rẻ rúng đặng vậy, nhưng các con lại chẳng hiểu rõ tà quái quyền hành là bực nào mà giữ mình hằng buổi.

Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy.

Tái Cầu: Khi Trang, Tương, Minh đến nghe à! Nếu các con còn vậy nữa Thầy sẽ phạt một cách nặng nề. Kỳ đem một chén nước lạnh vào đây.

 


 

Tái Cầu:

THẦY

Các con, cười ....

Thầy chẳng biết đến chừng nào, Thầy dạy cho các con hiểu Thánh ý Thầy đặng... Cười...

Thầy dặn... Lịch nghe dạy.

Phải trấn đàn từ phía góc Thánh Thất chớ chẳng phải nội ở giữa mà thôi, rồi làm Ðại Lễ như buổi ở tại chùa Vĩnh Nguyên.

Nhớ đừng phát cờ lộn nữa nghe à.

Bởi tại con nên ra đến đổi, hiểu à.

Thầy dặn con một điều nầy nữa, từ đây khá làm theo lời Thầy dạy, đừng biến cải nghe à.

Thiên Phong lập vị.

Chưởng Pháp tọa vị, Ðầu Sư tọa vị... khá hành lễ.

Chư Môn Ðệ nhập nội cho có nghiêm trang. Mỹ Ngọc, con phải biểu nhạc đờn đủ bảy bài.

Thầy buộc tái cầu đặng Thiên Phong nghe.

Thầy ngự.

 


 

Vendredi, le 19-11-1926 (Rằm tháng 10 Bính Dần)

Tái Cầu:

THẦY

Các con.

Trung! ra mời chư Thiên Phong Lục tỉnh còn sót lại vào hầu.

Viễn, đợi chút con.

Thầy biểu... lui.

Tín vào Tây Ninh thăm Sâm gần chết.

Viễn, Hoài! Thầy khen hai con, hai con quì đó. Thầy kêu vài đứa nữa.

Hoài (Cần Giuộc), Lai, Son, Bút, Viễn, Tín, Thầy phong chức Giáo Sư; còn Bích chức Giáo Hữu. Nhơn đã là Giáo Hữu, Thầy thăng lên chức Giáo Sư.

Các con cứ lấy tên mình mà lót giữa và để chữ Thượng trước, duy có Son tên chữ Nôm, Thầy sửa lại là Châu. Các con nghe,

Ðau dạ ôm thương dụng pháp hình,
Ðừng vì Cha mến tởn oai linh.
Một phen thử thách đều trôi hết,
Thầy buộc lập công khá hết tình.

Thầy dạy các con nhớ ngày nầy là ngày kỷ niệm. Trung, con phải lấy tên của Chư Môn Ðệ có mặt tại đây ngày nay mà giữ gìn để lưu lại cho hậu thế biết.... nghe à!

Thầy cần dùng ba chục đứa tình nguyện để phổ cáo xứ xa, ai đâu?

Lấy tên con Tương.

Trung Kỳ, Bắc Kỳ.

Bính, Thầy dạy riêng con.

Ngày mùng 1 chư Thiện Nam Tín Nữ mới đặng cầu Ðạo.

Chư Thiên Phong bình thân.

Viễn xin tập đồng, Thầy cho; sau Thầy sẽ làm phép truyền Thần cho nó. Quế, con phụ bút với Bích nghe... cười...

Cả thảy Thầy phong chức Giáo Hữu, đến sau Thầy buộc học hết Thánh ngôn rồi mới đi phổ cáo nghe à!

Hoài, phải con. Thầy không quên, song đợi con ra chịu gánh vác. Thầy phong cho con chức Giáo Sư, gắng phổ độ tỉnh Bến Tre nghe.

Ðêm nay các con phải thành tâm cầu nguyện đặng ngày mai Thầy lập Pháp Chánh Truyền nghe à.

Thầy không phong sắc cho ai hết đặng phạt tội ngã lòng.

 


 

Q.2-011. Ngày 20-11-1926 (âl. 16-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền.

 

Samedi 20 Novembre 1926 (16-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ Chư Môn Ðệ.

Chư Minh Lý có mặt há?

Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe.

Thầy lập phẩm Giáo Tông nghĩa là: Anh Cả các con có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.

Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe.

Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.

Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng cầu rỗi cho các con, nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.

Chưởng Pháp của ba phái là: Ðạo, Nho, Thích; Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mắt Thầy vốn coi như một vậy, thì một thành ba, mà ba cũng như một.

Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành; hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống hay là nơi Ðầu Sư dâng lên. Như hai đàng chưa thuận thì chúng nó phải dưng lại cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống sửa lại, hay là tùy ý lập luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như thoảng có kinh luật chi làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản.

Buộc các Tín Ðồ vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời, Thầy khuyên các con rán xúm nhau mà giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng, ba ấn phải có đủ trên mỗi luật mới đặng thi hành.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.

Ðầu Sư có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của Chư Môn Ðệ. Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt coi phải có ích cho nhơn sanh chăng? Nên Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.

Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông khuyến dạy; như thoảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ.

Thầy khuyên các con phải thương yêu nhau và giúp đỡ nó, Thầy lại dặn các con: Như có chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.

Ba chi tuy khác chớ quyền luật như nhau, như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, chúng nó có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.

Phối Sư mỗi phái là mười hai người cọng là ba mươi sáu, trong 36 vị ấy có ba vị Chánh Phối Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Ðầu Sư mà hành sự, song không quyền cầu phá luật lệ nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.

Giáo Sư có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư Môn Ðệ trong đường Ðạo với đường Ðời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em, chúng nó cầm sổ bộ của cả Tín Ðồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.

Như tại Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Ðệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.

Giáo Hữu là người để phổ thông chơn Ðạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Ðạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều mỗi phái một ngàn, chẳng đặng tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép khi hành lễ làm chủ các chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Ðiều chi chúng nó xin thì buộc Giáo Tông phải cần mẫn xét nét hơn hết, như điều gì mờ hồ thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm duyệt.

Chúng nó phải đủ hạnh đức, tư cách mới đặng, vì chúng nó là người thân cận với nhơn sanh hơn hết... nghe à.

Lễ Sanh là người có hạnh lựa chọn trong chư Môn Ðệ để hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Ðồ. Thầy dặn các con hiểu rõ rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.

... Con khá an lòng chờ đợi, Thầy sắp đặt Nữ phái, công con Thầy chẳng quên, con chớ rầu buồn. Thầy còn lắm điều sắp đặt, con đừng vội mà ngã lòng nghe à.

 

Phụ ghi: ...thoảng... theo ấn bản Pháp Chánh Truyền Chú Giải ghi là: ... thảng ...

 


 

Tiếp theo, ngày 17-10-Bính Dần

THẦY

- Ðầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử.

- Phối Sư muốn lên Ðầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.

- Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị xúm nhau công cử.

- Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư, thì nhờ 3000 vị xúm nhau công cử.

- Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu, thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.

- Môn Ðệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn Ðệ xúm nhau công cử, kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.

Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn Ðệ công cử mới đặng; kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.

Chư Môn Ðệ tuân mạng. Thầy ban ơn cho các con.

Thăng.

 


 

Q.2-012. Ngày 23-11-1926 (âl. 19-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

2 giờ sáng, Mardi 23 Novembre 1926 (18 rạng 19 Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ Chư Thiện Nam, Chư Tín Nữ,

Cười .....

Ta sẽ cho những kẻ thờ ta với miệng lưỡi, chớ chẳng phải thờ ta với lòng dạ, biết oai quyền ta thể nào. Ta nói thiệt tốt hơn kẻ ấy đừng sanh ra ở thế nầy hơn là có sống mà đã chết. Quản chi một lũ ma hồn quỉ xác mà phải nhọc nhằn cho ta dường này.

Chúng nó dám mượn màu dối thế mà bêu dạng trước mắt Ta. Khổ cho những kẻ ấy! Khốn cho những kẻ ấy! Chư Thiện Nam cầu Ðạo thượng sớ.

Lê Chí Thuần:

Ðã thừa may rủi cuộc vinh hư,
Làm lắm công phu thử đến chừ.
Hiệp khách nên trang non nước sửa,
Càng qua lần lựa cửa anh thư.

Thâu

Bùi Chánh Trực:

Thơ trang đưa rước khách tài ba,
Nên nghiệp bởi con biết chữ hòa.
Âm chất chưa hao nhà chứa trước,
Phương châm gìn rõ chánh cùng tà.

Thâu

Mắc, con nghe: (Nguyễn Văn Mắc)

Chánh tà con đủ thấy con đường,
Biết ý rằng Thầy để dạ thương.
Làm lụng công trình ra sức trẻ,
Giữ gìn cho vẹn đạo tào khương.

Thầy biết lòng con, con hiểu dạ Thầy, gắng công hành Ðạo nghe.

Ðỗ Quan Ngự:

Khương Hi bất phục Hớn trào vong,
Thiên tải hưng suy nhử kiến đồng.
Thạch đảo lãng xâm phong khí hoại,
Từ tâm đức vượng thạnh kỳ phòng.

Thâu

Nguyễn Thanh Vân:

Phòng cơn biển nọ hóa vườn dâu,
Chưa hết quan viên há hết chầu.
Cái bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn đào thong thả đã là đâu.

Thâu

Nguyễn Học Dần:

Ðâu vui nước trí với non nhân,
Lòn lõi công danh khổ phận thân.
Nực nội trong lòng lo lúng túng,
Ðài mây để bước khá nơi chân.

Thâu

Ngô Văn Ðiều:

Noi chân theo dõi Thánh Hiền xưa,
Từng tuổi đời qua cũng đã vừa.
Khôn khéo khá lo âm chất để,
Phẩm Tiên nẽo tục chẳng thừa ưa.

Thâu

Mai Văn Thạch:

Thừa ưa đến buổi đặng chơi Tiên,
Chẳng mất công phu chẳng tốn tiền.
Ái ngại lòng trông mong đến thử,
Coi nền Ðạo mới thiệt linh thiêng.

Ngô Văn Quới:

Linh thiêng cùng chẳng tại lòng mình,
Thương trẻ có công gắng đến xin.
Thầy dặn chừng mô nghe tiếng hạc,
Thì đưa tay vói níu khuôn linh.

Thâu

Nguyễn Văn Quờn:

Khuôn linh chẳng phụ kẻ lòng thành,
Nhưng cám chút tình đến trước kinh.
Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,
Ðể công dạy kẻ biết nguồn lành.

Thâu

Nguyễn Văn Nhuộm:

Nguồn lành là chốn rất an nhàn,
Trước mắt đâu xa hỏi nẻo sang.
Trần tục là nơi lo lấy của,
Cảnh Tiên là chốn hưởng vinh sang.

Thâu

Trang Văn Ðó: (Tổng Giai Hóa)

Sang như Tần Thỉ lúc đương hưng,
Chừng quá ba đời hết các lân.
Lấp biển còn chờ ngày biển sụp,
Thành Tiên, thành Phật khó trăm lần.

Thâu

Phan Văn Phường:

Trăm lần nặng nhẹ cuộc đời xây,
Chứa hết sức con lại đến Thầy.
Tranh cạnh mượn người lo tính trước,
Ðẹp lòng nhân sự đặng lòng đây.

Thâu

Phan Văn Muôn:

Lòng đây nào có khác chi phàm,
Biết đặng Ðạo rồi mới biết ham.
Ðưa đẩy ít ai dè có Lão,
Nếu đời thấy đặng chẳng người tham.

Thâu

Hà Văn Như:

Tham chi thế sự lắm đua tranh,
Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
Bỏ hết trong cơn mê một giấc,
Trăm năm ngắn ngủi nhớ làm lành.

Thâu

Ngô Văn Hoài:

Làm lành cho trọn Phật Trời thương,
Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.
Mầng thiệt là khi nương cảnh tịnh,
Khen khen giận ghét kẻ đời thường.

Thâu

Ðoàn Văn Bổn:

Ðời thường chẳng rõ lẽ nên hư,
Chưa biết mà chê mới lạ chừ.
Thiệt thiệt hư hư con chớ ngại,
Gắng công theo dõi biết khôn hư.

Thâu

Lê Văn Hợi:

Bư như Ðạo chích thế khen khôn,
Khôn giống ông Nhan gọi chẳng hồn.
Lời lẽ đố con phân thiệt giả,
Khôn khôn, dại dại cũng đồng phồn.

Thâu

Phụ ghi: Bư như Ðạo chích... chúng tôi nghĩ là: như Ðạo chích... vì liên vận với bài thi trước đó: Gắng công theo dõi biết khôn hư.

V. Phên:

Ðồng phồn đưa rước viếng Diêm Cung,
Ai đã trước đi hỏi nhắn cùng.
Trời với Diêm Ðình đôi ngõ trở,
Muốn toan thoát tục liệu mà dùng.

Thâu

Tắc phải về, Chư Ái Nữ cầu Ðạo.

Thầy thâu hết.

Ca thị, con lấy tên hết rồi mai Thầy cho thơ.

 


 

Mardi 23 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ Chư Nhu, Hỉ Chư Tín Nữ,

Trung, Trang mai nầy hai con biểu Tương và Hóa lên nghe Thầy dạy việc nghe.

Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.

Nguyễn Văn Bảy:

Mặt sắt vô tư đã tiếng đồn,
Khai nên cơ nghiệp định kiêm môn.
Lòng thành một tấm nâng non nước,
Quyết dở ngửa nghiêng lách phúc bồn.

Sau trọng dụng.

Trương Văn Mùi:

Phúc bồn thế cuộc tưởng như in,
Cam khổ công khanh mới biết mình.
Oằn oại đôi vai trung nghĩa gánh,
Nên hư giúp thế để mình khinh.

Thâu

Nguyễn Văn Cảnh: Bình Trưng, Mỹ Tho.

Mình khinh hóa trọng đức hơn tài,
Một mảy lợi danh trối kệ ai.
Tâm tánh quan phòng mình biết lấy,
Ðẩy đưa mặt thế trổi khoe tài.

Thâu

Nguyễn Văn Ðài: Bình Trưng, Mỹ Tho.

Khoe tài phải có nét anh tài,
Dưới thế xem tường chẳng đặng hai.
Bủa lưới Càn Khôn lừa lọc khách,
Chơn trời chẳng kẻ thoát cao bay.

Thâu

Trang Văn Keo: (Tây Ninh)

Cao bay xa chạy đã hay chi,
Chưa biết loạn bình lúc trợ nguy.
Ôm nết vó quàng lo khống khứ,
Cũng như chú dốt đến trường thi.

Thâu

Trần Văn Liêng: (Tây Ninh)

Trường thi đã đỗ bốn vi ngoài,
Phải rán khi nên chức Tú tài.
Nhơn bởi ít công lo phận sự,
Mình nên chẳng rán đến cầu ai.

Thâu

Ðào Văn Xồi: (Bình Thành, Tân An)

Cầu ai mở đặng khiếu thông minh,
Thờ phượng Thầy khuyên trẻ hết tình.
Công của đôi bên trao múc đủ,
Ðừng như kẻ yếu đợi người binh.

Thâu

Trần Văn Huê:

Người binh con khá biết binh người,
Chớ chịu ơn dày phải hổ ngươi.
Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,
Nên danh có thuở đặng nên thời.

Thâu

Lê Văn Khuynh:

Nên thời vương bá lúc ngồi câu,
Lựa phải cửa công đến chực hầu.
Thú vị tố nào chìu tố nấy,
Riêng vui Thuấn trước mến bầy trâu.

Thâu

Bùi Ngọc Hổ:

Bầy trâu đốt đít để gương xưa,
Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.
Quá sức trí người đừng ngưỡng vọng,
Thành gia nhiều kẻ đã nên chưa?

Thâu

Lê Văn Nhung:

Nên chưa giúp Hớn buổi hưng vong,
Gia Cát xưa kia chẳng khỏi vòng.
Thuận lý Trời nên hư mới rõ,
Qua rồi trọn kiếp biết anh hùng.

Thâu

Trần Văn Nên:

Anh hùng gặp thế rán đua chen,
Con giống như con bướm mến đèn.
Thầy hỏi như tu con khá nhớ,
Làm sao Thầy đặng để lời khen.

Thâu

Phạm Văn Lắm: (Long Thành, Tây Ninh)

Lời khen miệng thế quí chi đâu,
Bất quá như son lộn bả trầu.
Thành thật thôi thì mình xử lấy,
Ðèo bồng chi rộn trí không sâu.

Thâu

Ngô Văn Xiên: Lạ chưa? (Trường Hòa, Tây Ninh)

Không sâu trí thức hiếu hơn người,
Nếu chẳng mắt Thầy hỏi có ngươi.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.

Thâu

Trần Văn Hương: (Long Thành)

Cười như Lữ Vọng lúc suy thời,
Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.
Ðưa rước cho qua cơn khách đón,
Thân còn chẳng tiếc lựa là lời.

Thâu

Trang V. Khách: (Long Thành, Tây Ninh)

Lời vàng nhắn hỏi khách trần gian,
Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn.
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh an nhàn.

Thâu

Nguyễn Văn De: (Long Thành)

An nhàn gió túi với trăng sân,
Ràng buộc cân đai chịu mạng thần.
Quân nhược thần cường đời trở vẻ,
Thanh thanh sĩ sĩ khó đai cân.

Thâu

Mắc! Mời Mắc, Ái nữ nghe.

Vợ Tư Mắc:

Thầy dạy:

Nắm chặt trăm năm một chữ đồng,
Hễ chồng thì của vợ thì công.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.

Thầy cám Ái nữ. Mắc! Vợ con nó lại bị khiếm huyết mà biến nhiều bịnh; mùa nầy chẳng nên uống thuốc Tàu, Thầy dặn con tuân theo toa Thầy mà cho nó uống Bilinne.

Trịnh Thị Thình:

Cân đường tội phước đấp nền nhân,
Chớ lấy giữ riêng để dạ hờn.
Mình lánh kẻ tà mình ắt chánh,
Khốn chi tính thiệt với so hơn.

Thâu

Lê Thị Chánh:

So hơn đức hạnh mới nên giành,
Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.
Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,
Trên đời kẻ dữ hóa làm lành.

Con nghe mà cư xử đời nghe.

Ngô Thị Chuộng:

Làm lành để đức hưởng thân sau,
Ðừng tiếc chi mang lấy sắc màu.
Lầm lũi ai đi mình cũng bước,
Mau chơn tới trước chửa chi cao.

Lý Thị Chi:

Cao sâu máy Tạo khó đong lường,
Thiệt bực mới vào cửa niệm hương.
Trăm nỗi khó khăn ngăn trở dạ,
Phải thương mình mới biết cao lương.

Lâm Thị Kỉnh:

Cao lương đừng tưởng giống cao quyền,
Quyền lớn là vì trước có duyên.
Ðạo khó nắm tay nên mới quí,
Chẳng như củi mục mới xem thường.

( Cho kẻ ngoài)

Nguyễn Thị Tý:

Xem thường dưới mắt dở cùng hay,
Ngặt độ cho ra chẳng kẻ bày.
Ðạo đức cũng như mua buổi chợ,
Dở ngon mắc rẻ miệng mình nài.

Thâu

Huỳnh Thị Hội:

Nài bao cực nhọc gắng tầm Tiên,
Thầy một điều khuyên ấy tập hiền.
Lỡ buổi trước kia chưa thấy Phật,
Còn nay công tội có người biên.

Thâu

Nguyễn Thị Ba: (Ðỗ Thị Mài)

Người biên ra vẻ nét nhà xưa,
Ðức hạnh trung trinh cũng khá thừa.
Giúp thế nhiều phen con sẵn dạ,
Nhơn là một nết của Thầy ưa.

Thâu

Phan Thị Nghiêm:

Ưa nghe đạo đức ghét tà tây,
Ngưỡng mộ thì nay đã gặp Thầy.
Chẳng mắc đưa lời vào dạ trẻ,
Thường ngày cầu nguyện dạ đừng khuây.

Thâu

Phạm Thị Hiệp:

Ðừng khuây những tiếng thiện lời thành,
Tấc dạ con gìn một chữ trinh.
Lợi khổ danh nguy con chớ vọng,
Khá lo cho đặng chốn hiền lành.

Thâu

Bùi Thị Khuê:

Hiền lành là phước dẫn nguồn Tiên,
Chưa đặng trọn chưng khách cửu tuyền.
Lo thế nhớ hồi lo phận trước,
Thân trăm tuổi chẳng trọn như nhiên.

Thâu

Ðặng Thị Nẵm:

Như nhiên lành phước dữ tai ương,
Một trả một vay cũng lẽ thường.
Con muốn nên nhà lo lập nghiệp,
Muốn qua sông cả phải nương thuyền.

Thâu

Nguyễn Thị Cung:

Nương thuyền qua thử khỏi sông mê,
Chẳng có công danh cũng có bề.
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.

Thâu

Trần Thị Vang:

Tu tề thì sửa vẹn gia đình,
Cái đạo nhơn luân chớ dể khinh.
Ðạo đức để gương con cháu học,
Trăm năm ngàn thuở phước nhà in.

Thâu

Trần Thị Hạp:

In như Tề phụ chịu hàm oan,
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
Dưới thế hiếm người toan hiếp đáp,
Thương thay một mạng bỏ nơi nhàn.

Thâu

Bùi Thị Nga: (Long Thành, Tây Ninh)

Nơi nhàn đâu đến đọa hồng trần,
Lành dữ vì chưng chẳng biện phân.
Nơi mái tây hiên Trời ngó mắt,
Lúc nên khi đến cũng còn gần.

Thâu

 


 

Mardi séance du 23 Novembre 1926 (18-10-Bính Dần)

THẦY

Các con,

Các con chớ phiền hà chuyện Thánh Thất, chuyện xảy ra ấy cũng là một bước trắc trở trong đường Ðạo của Thầy. Thầy còn phải đau lòng thay, nhưng cũng là nơi Thiên cơ vậy, Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chìu theo ý của mỗi đứa mà vun đấp nền Ðạo. Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức. Sự xảy ra nơi Thánh Thất, tuy là nơi mối Ðạo chậm trễ, nhưng cũng do nơi lòng tà vạy của nhiều đứa mà ra. Duy tâm trung chánh đáng thì là làm cốt cho Tiên Thánh; còn tâm chí vạy tà là chỗ của tà quái xung nhập.

Chi chi cứ tưởng có Thầy giúp mà lập xong nền Ðạo cho các con là đủ. Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà. Các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần tới, đừng gấp quá mà cũng chớ thối lui thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.

Thầy ban ơn cho các con. Thầy thăng.

 


 

Q.2-013. Ngày 24-11-1926 (âl. 19-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "... Từ khai Thiên lập Ðịa Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao những điều khổ hạnh, mấy lần lao lý,...".

 

Séance du 24 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần)

THẦY

Các con,

Các con, Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường tà quái, mà Thầy bắt đau lòng đó các con. Các con thiết nghĩ ra lẽ nào?

Mỹ Ngọc: Bạch Thầy tại vài ông Thiên Phong làm chuyện lôi thôi nên mới có quỉ yêu xung nhập.

- Phải, bởi cái lếu của chúng nó mà sanh việc ngày hôm nay.

Mỹ Ngọc: Bạch Thầy trong Môn Ðệ có nhiều người ngã lòng.

- Bất bình lắm hả?

- Nhưng trong Thiên Phong có vài ông mà thôi.

- Cũng có nhiều chớ sao con nói ít vậy con? Ðó là bước Ðạo, đó là Thiên cơ, các con hiểu sao được, nhưng Thầy buồn vì có nhiều đứa sàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút. Môn Ðệ của Thầy đứa muốn bỏ Ðạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đổi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán.

Các con hiểu Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định, chạy sao cho khỏi? Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.

Từ khai Thiên lập Ðịa Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao những điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày nuôi nấng các con hầu lập nên nền Ðạo; cũng tưởng các con lấy đó mà làm đuốc soi mình đặng bỏ tà qui chánh. Mấy lần vun đấp nền Ðạo Thầy đều cũng bị bây mà hư giềng Ðạo cả.

Thầy buồn đó các con.

Thầy ban ơn cho các con, Thầy thăng.

 


 

Q.2-014. Ngày 25-11-1926 (âl. 20-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "... Ðường càng dài, bước càng nhọc thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ...".

 

Mercredi 25 Novembre 1926 (20-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ Chư Môn Ðệ, Chư Ái Nữ, Chư Chúng Sanh,

Các con nghe Thầy: Sự biến xảy ra đến nay đã trở thành một trường ngôn luận, có khi cũng náo nhiệt đến nền Ðạo. Kẻ gọi tà, người nói chánh, nơi Thiên Thơ đã có dấu ràng ràng, các con có đi tranh luận cũng nhọc công vô ích. Kẻ hữu phần người vô phước, tin tin, không không cũng chẳng sửa cơ Trời đặng.

Ðường càng dài, bước càng nhọc thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ. Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó đã nhiểm luyến đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước. Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền vi để cơ Trời xây đổi, các con nên liệu lấy.

Nơi đây là Thánh Ðịa, Thầy đã chọn chánh chỗ Thánh Thất là đây mà thôi.

Thơ! Con chẳng nên lo xa nữa nghe. Thầy giao sự sắp đặt hành tàng về mọi sự Thánh Thất cho Trung, Tương, Trang, Hóa, làm sao nơi đây cho đặng vững vàng khỏi điều trắc trở. Bốn con nên lưu ý, nhứt là Trang, con hiểu Thầy chăng con? Bốn con điều đình chung lo, có Thầy biết điều thiết yếu và sẽ làm cho các con đặng toại kỳ sở nguyện.

Trung! Nơi Ðàn thứ hai tới đây, con nhớ cho các Thánh nội Sài Gòn và Chợ Lớn hay đặng đến hết cho Thầy dạy nghe.

Thầy tưởng dùng máy đèn có khi làm cho mất sự tịnh trong lúc hành lễ mỗi Ðàn, nhưng đã có rồi, con liệu tùy tiện mà làm sao cho êm tịnh.

Trung! Cho Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.

Ngô Trung Bình:

Nguồn Ðạo tìm vào đã tận nơi,
Rán đưa chơn tục chí đừng dời.
Bao nhiêu lỗi trước tua kềm sửa,
Căn mạng nên Ta phải để lời.

Thượng.

Trương Quang Huê:

Lời ngay mích bụng dạ đừng nao,
Mong mỏi đường theo cửa Ðạo vào.
Vào đặng thấy nguy đừng trở bước,
Bước an chí ấy mới thanh cao.

Thượng.

Nguyễn Hữu Trinh:

Thanh cao tập chí mắt xem thời,
Ðời thấy đã nhiều chán nữa thôi.
Thôi rán lần đường dò bước trễ,
Trễ lâu cũng tới chí đừng lơi.

Thượng.

Nguyễn Văn Thành:

Chí đừng lơi mới đáng trượng phu,
Mượn nhành dương rưới khỏa cơn sầu.
Rừng chiều ác lặn con trăng lố,
Chậm rãi đường về bước trở thu.

Thượng.

Hà Văn Hành:

Thu về Ðông vội trở màu sầu,
Sầu thảm chờ qua lúc đớn đau.
Ðau bước đường xa hầu đến chốn,
Chốn nao đạo hạnh tập tâm cầu.

Thượng.

Nguyễn Văn Lục:

Tập tâm cầu Ðạo chớ sơ sai,
Chí ấy sau nhờ vận hội may.
Tòng lảnh chim chiều con lạc cánh,
Lần đường chớ nệ dặm đường dài.

Thượng.

Huỳnh Văn Kiêu:

Ðường dài vắng bước nỗi quanh co,
Ðường bước từ nơi rán chí dò.
Dò đến hang Thần nghe hạc gáy,
Gáy non Nam Việt có Trời lo.

Thượng.

Nguyễn Văn Út:

Trời lo đâu nệ nhọc công trình,
Nhọc sức vì thương đám chúng sanh.
Sanh dưỡng, dưỡng sanh rồi phải độ,
Ðộ cho trở bước lại đơn đình.

Thượng.

Mai Văn Thành:

Ðình bước vì chưng ngán bước đường,
Ðường mơi thơ thới cỏ phơi sương.
Sương nồng nhánh liễu chim bay liệng,
Luyện đặng trường sanh thoát thế thường.

Thượng.

... ... ...

Thường ngày cay đắng phải âu lo,
Ðộ dẫn nhằm nơi phải gắng dò.
Trau tánh ôn hòa chừa cải trước,
Dựa hơi rừng quế cũng thơm tho.

Thượng.

Lý Thị Há:

Lý diệp chờ xuân nhánh trổ bông,
Thị thành chen lấn lại rừng tòng.
Há đem tấc nguyện làm công quả,
Bước tục nhờ may bước khỏi vòng.

Thượng.

Tô Quế Tươi:

Khỏi vòng mê tín lại đường ngay,
Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.
Ðạo đức để lòng từ ấy giữ,
Chủ trung đã gặp Ðấng Cao Ðài.

Ðài các chưa từng miếng ngọt ngon,
Rán công hậu kiếp đặng vuông tròn.
Tròn nền đạo đức nghèo là quí,
Quí gặp hồng đem điểm bức son.

Thầy thâu hết hai bên Nam và Nữ.

Trung, con gởi tin cho Khỏe ở Bạc Liêu rằng: Thầy đã chứng và khen lòng thiết thạch của nó. Nó bị sự cản trở chẳng đặng hầu Thầy mà thọ phong Thiên Ân.

Nhưng cứ việc độ rỗi làm xong phận sự, Thầy sẽ gia phong. Thầy ban ơn cho các con.

 


 

Q.2-015. Ngày 26-11-1926 (âl. 21-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Jeudi 26 Novembre 1926 (21-10-Bính Dần)

 

Thinh danh mãn thế đức tồn linh,
Thanh trực nhứt triêu quán thế tình.
Hữu phước độ nhơn chiêu vạn tánh,
Cần lao thống hiệp hậu gia đình.

Hoàng triều hiệp nghĩa nam Thiên vận,
Phụ Hớn hưng suy vấn Khổng Minh.
Nhựt nguyệt song quang thùy bạch chuyển,
Hồn quân vị vãn đáo hầu thần.

Con khá kiếm cao xa mà hiểu nghe, còn nội trợ con, Thầy dạy:

Bạch truật tinh sao khả phục qui,
Tứ quân tu trạch khảo trần bì.
Thanh chi hữu hiệp tam phân phụ,
Liên thạch cầu đa bất phạt tì.

Trong ấy có bài thuốc và kiếm nghĩa bài thi, nhớ lời căn dặn.

Nguyễn Thị Quít: (Cẩm Giang, Triêm Hóa)

Nên nhà đã lập hiếm phương hay,
Ðường Ðạo Thầy khuyên .... cúng tài.
Mới thấy con chưa từng phải quấy,
Khá chờ xem thử biết Thầy hay.

Thâu

Phạm Thị Hóa: (Long Thành, Tây Ninh)

Thầy hay thương mến lũ con hoang,
Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.
Nếu biết tánh so đo đắn phận,
Dầu nhiều cay đắng cũng thanh nhàn.

Thâu

Trần Thị Phụng:

Thanh nhàn nhờ hứng giọt Cam Lồ,
Ðâu bẵng vui riêng nết Lão Tô.
Cực nhọc buồn vui đời đã chán,
Thôi thôi tự toại niệm Nam Mô.

Thâu

Ðoàn Thị Liên:

Nam Mô hai chữ dựa màu thiền,
Ðến nửa kiếp còn lắm lợi riêng.
Gia nghiệp đã an con cái đủ,
Khá tua cửa Phạm đến cầu duyên.

Thâu

Ðặng Thị É:

Cầu duyên Phật khử oan gia,
Trái chủ đừng khinh gánh đến già.
Lựa chọn đã .... nơi đạo đức,
Sau quên ngước mặt ngó đầu nhà.

Thâu

Ðỗ Thị Diệu:

Ðầu nhà có mắt ngó người hiền,
Con vốn giòng lành Lão mới khuyên.
Nếu muốn khử tiêu tai nạn đến,
Thì nên khẩn nguyện sợ oai quyền.

Thâu

Nguyễn Thị Dự:

Oai quyền làm chủ Phật, Tiên, Thần,
Chẳng vị song cầm vững nét cân.
Hỏi kẻ còn ai hơn thế nữa,
Thì toan đến khẩn độ phàm thân.

Thâu

Lê Thị Chi:

Phàm thân thương kẻ lắm lao đao,
Bởi kiếp tiền khiên trả chớ sao.
Thành dạ tu tầm Thầy sửa số,
Ðem qua biển khổ chẳng ba đào.

Thâu

Trương Văn Ðộng:

Ba đào ngọn nước với nguồn sông,
Như một cây trôi ở giữa dòng.
Thấy vậy thương tình cho kẻ vớt,
Ðem về làm của với làm song.

Thâu. Thầy sẽ trọng dụng, khá học Ðạo.

Trang Văn Giáo:

Làm song ngăn đón lũ gian hùng,
Mạnh yếu đánh thoi cũng gọi hùng.
Quyết lập thân danh tua sửa lưỡi,
Nói hiền kẻ dữ nịnh thành trung.

Thâu

Trịnh Văn Kỳ: Thầy phong con chức Giáo Hữu, nội một tuần con sắp đặt việc nhà cho an rồi đi phổ cáo trong tỉnh Tây Ninh, cho khắp hết các nơi nghe con.

 


 

THẦY

Các con,

Thơ nó dâng sớ cầu... Cười...

Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật, biết sao cứu rỗi cho đặng.

Thầy lại phải làm thinh cho kẻ mất lẽ công bình.

Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha thứ, Thầy thì đặng còn Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao; nhứt là Thái Bạch Kim Tinh rất khó, Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi.

Các con chớ dễ ngươi phạm thượng nghe à.

Chư Nhu thượng sớ.

M. Trung bạch Thầy về sự cốt Quan Thánh Ðế Quân.

- Không giống chi hết... Cười... làm cốt khác.

Ngô Văn Nhạc:

Thân hay gánh vác nỗi nhà nên,
Chẳng chịu tìm ra kế vững bền.
Lập đặng rồi sợ ra đến đổ,
Nơi mình chẳng phải tội bề trên.

Nghe à... Thâu.

Nguyễn Văn Tàu:

Bề trên thương dưới dắt dìu nhau,
Ví lỗi muôn xe cũng nhục bào.
Thêm sức tại nhà nay đã sẵn,
Nhiều cây nên núi dạo nương rào.

Thâu

Nguyễn Văn Tám:

Nương rào tòng bá núp Trời đông,
Trí đủ ... chưa phải thiện lòng.
Nên nghiệp đôi khi chưa tính trước,
Năm tròn trở ngại có mùa Ðông.

Thâu

Trg Văn Thành: (Cẩm Giang, Giai Hóa)

Ðong đầy đức cả hóa kho vàng,
Ðừng thấy phận nghèo chiếp miệng than.
Cái cửa Thiêng liêng chưa dễ đặng,
Ðỉnh chung thế sự trấu cùng than.

Thâu.

Huỳnh Văn Ngay:

Than chưa ngún lửa cuộc đời qua,
Nhưng bởi mến con hứa đặng nhà.
Vợ dữ đưa lời đừng trả giọng,
Khen hiền trước phải biết chê tà.

Thâu

Trần Văn Chí:

Chê tà trừ bạo lẽ như nhiên,
Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.
Ðức mạnh ba ngàn thâu thế giái,
Lòng thành làm khép mặt Thần Tiên.

Thâu

 


 

Q.2-016. Ngày 27-11-1926 (âl. 22-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ.

 

Vendredi 27 Novembre 1926 (22-10-Bính Dần)

 

Hỉ các Ðẳng Nhơn Sanh,

Trung thượng sớ, lấy toa số 2 để sau con.

Phạm Văn Danh:

Vì thương nhơn loại cực lòng Ta,
Ta hỏi nhơn sanh có biết à?
À Ðất Trời kia ai Tạo hóa,
Hóa sanh chung hưởng há quên già.

Thâu

Nguyễn Văn Chung:

Quên già, già cũng một cười thôi,
Thôi kẻ quên ơn nói chẳng rồi.
Rồi cuộc tuần hườn sau mới rõ,
Rõ rồi hối hận việc thôi rồi.

Thâu

Võ Văn Nhàn: (Cẩm Giang, Tây Ninh)

Thôi rồi một giấc biệt ngàn thu,
Thu muốn xuân về phải rán tu.
Tu luyện tua bền lòng sắt đá,
Ðá bền cũng phải đổ về Thu.

Thâu

Nguyễn Văn Quyến: (Cẩm Giang)

Về thu chạnh dạ nhớ hồi xưa,
Xưa đã cam lòng đã rõ chưa.
Chưa rõ nay còn tìm tỏi đến,
Ðến nơi cửa Phật biết rồi chưa?

Rán tu kẻo muộn. Thâu.

Huỳnh Văn Ngô: (Hiệp Ninh, Tây Ninh)

Rồi chưa Nhơn đạo đến cầu tu,
Tu ấy nặng nề lắm công phu.
Phu phỉ lòng kia phàm chưa dứt,
Dứt lòng trần tục sẽ xin tu.

Thâu

Ðoàn Văn Nuôi: (Hòa Hưng, Rạch Giá)

Xin tu phải rõ Ðạo là gì,
Vì chẳng đồi phong nẻo phải đi.
Ði đến tầng cao rồi biết thấp,
Thấp cao hai lẽ rõ là chi.

Thâu

Ngô Văn Hồng: (Hòa Hưng, Rạch Giá)

Thấp cao hai lẽ rõ là chi,
Chi cũng chẳng qua biết thế thì.
Thì đặng thân hiền trăm tuổi thọ,
Thọ như ông Thọ sướng li bì.

Thâu

Phạm Văn Ðể: (Cẩm Giang, Tây Ninh)

Li bì cảnh ngộ dạ hằng lo,
Lo chẳng đặng mà cũng rán lo.
Lo cửa lo nhà lo sức kém,
Kém vì chưa biết Ðạo nên lo.

Phải xét mình cho lắm nghe! Thâu.

Trang Văn Khánh: (Long Thành, Tây Ninh)

Nên lo cho đặng mối cang thường,
Thường bữa trau giồi cái tánh cương.
Cương trực lòng như người Thánh trước,
Trước làm quân tử tánh phi thường.

Thâu

Nguyễn Văn Liểng: (M. Trực, Lộc Ninh, Tổng Thanh Hóa, Rạch Giá)

Phi thường hạnh ấy nghĩ mà lo,
Lo hết sức người mới thấy cho.
Cho cái kiếp trần danh với lợi,
Lợi gì cho bằng Ðạo Tiên Nho.

Rán tu hạnh. Thâu.

Ngô Văn Nho: (Cẩm Giang, Tây Ninh)

Tiên Nho cũng học Phật chung nền,
Nền Ðạo tu tâm chí cũng nên.
Nên đạo hạnh mình, mình cạn xét,
Xét cho tột lý Ðạo nhà nên.

Thâu

Nhà nên cũng tại gái lòng lành,
Lành dữ khuyên ai chớ cạnh tranh.
Tranh lắm bà con đều ghét nết,
Nết na tề chỉnh ấy khôn lanh.

Thâu. Rán tu hạnh, việc chi sẽ có Thầy.

Nguyễn Văn Tám:

Khôn lanh cho biết Ðạo mà theo,
Theo đặng kịp người khỏi ngặt nghèo.
Nghèo ngặt bởi lòng không chứa đức,
Ðức là cây cội dục lòng theo.

Thâu

Ðặng Văn Nẵm:

Lòng theo mây gió ngậm ngùi thay,
Thay đổi cuộc kia có mấy ngày.
Ngày lại tháng qua đời chóng chạy,
Chạy quanh chưa mệt đã qua ngày.

Thâu

Huỳnh Thị Bài:

Qua ngày đã thấy giấc chiêm bao,
Bao nhiêu tình cảnh luống thêm sầu.
Sầu dã dượi lòng ta tuổi lớn,
Lớn nhỏ khuyên lo Ðạo khá cầu.

Thâu

Lê Thị Chánh: (Phú An Hòa, Mỹ Tho)

Khá cầu mà học Ðạo cao xa,
Xa chốn tục phàm khá bước qua.
Qua khỏi đem người lên Nữ phái,
Phái chi cho có ít người cao.

 

Thâu: Cẩm Giang.

Cũng thâu: Long Thành, Hòa Ninh.

Thầy ban ơn cho các con.

 


 

Q.2-017. Ngày 27-11-1926 (âl. 23-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "Trước cầu cơ phải đọc Thánh ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe...".

 

Samedi 27 Novembre 1926 (23-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ Chư Môn Ðệ, hỉ Chư Nhu, Chư Tín Nữ,

Thầy dặn một lần nầy, từ đây tuân y theo vậy.

Trước cầu cơ phải đọc Thánh ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe, chúng nó mới biết Ðạo Thầy là Ðạo gì. Nếu các con không cho biết trước thì Thiện Nam, Tín Nữ thất lễ đã đành, chớ chúng nó biết Thầy là ai mà kiêng nễ.... nghe à.

Phải chỉnh Ðàn lại cho nghiêm, cái biến hôm Rằm các con chưa sợ sao, còn thất lễ nữa?

 


 

Tái Cầu:

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Thầy tức cười cho các con, đọc Thánh ngôn cũng là biếng nhác. Lời tiên tri Thầy, trong sự biến quỉ lộng là cần ích cho chúng sanh nghe, mà các con lại chẳng đọc... đọc lại.

 


 

Tái Cầu:

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Thầy hỏi các con, bài nào trúng?

Thơ, Ðạo Quang! Một lát nữa cầu Thái Bạch, cho nó nói chuyện với hai con nghe à....

Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ, kẻ cầu việc chi khác để sau nghe.

Võ Văn Phẩm:

Nên hư chịu lắm rủi cùng may,
Thời vận đã nên khiến đến nài.
Thầy dạy một điều lo tích đức,
Ðức kia đầy đủ mới sanh tài.

Thâu

Lâm Văn Lịch:

Sanh tài thì nghiệp cũng gầy nên,
Toan tính ra sao kế vững bền.
Trăm tuổi chưa ai quen nết Thánh,
Biết toan đem dưới thuận cùng trên.

Thâu

Ngưng:

Cùng trên với dưới giữ khiêm cung,
Kẻ nghịch con toan kế phục tùng.
Rộng đức tánh quyền hành ắt rộng,
Ðừng quen thói tục mượn oai hùm.

Thâu

Lê Trí Huệ:

Oai hùm ai ví Hạng Vương xưa,
Hớn đảnh gầy nên thế đón ngừa.
Thời đạt đầu xanh dầu chẳng toại,
Bảy mươi Lữ Vọng chẳng chờ trưa.

Thâu

Trần Văn Chiếu:

Chờ trưa e nỗi bóng Trời nghiêng,
Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.
Thành chẳng chừng năm ba phút chót,
Ðợi mau qua chóng lỡ làng duyên.

Thâu

Trần Văn Lý:

Lỡ làng duyên phận chớ buồn rầu,
Phải có cực nên mới tước cao.
Nương dưới bá tòng chờ tuyết mãn,
Non già đầu phải nhúng qua đầu.

Thâu

Cao Văn Phu:

Ðầu xanh chí khí lập danh cao,
Phải ở sao ra mặt khí hào.
Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,
Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.

Thâu

Mai Văn Thành: Con kiếm phương thế nào cho thuận theo nghề nghiệp con, thì Thầy giúp đỡ cho con lập thành sự nghiệp nghe à.

Còn Mắc thì Thầy sẽ sai Vinh lại hốt thuốc cho nó.

Trung, con nhớ nói với em rằng Thầy cấm nó uống rượu nghe. Nó cảm nặng là vì rượu đó nghe.

Chiu Ngùy:

Triều thiên nhứt lộ định phong quang,
Bát nhã trần ai khả quí nhàn.
Thiện tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên niên gia sự đắc bình an.

Thâu

Nguyễn Văn Chánh:

Bình an nhà nội mới an thân,
Hữu phước từ gia đã định phần.
Hết buổi truân chuyên nên buổi sướng,
Ðài mây có lúc cũng đưa chân.

Thâu

Phạm Trung Tín:

Ðưa chân đến cửa Khổng Trình xưa,
Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.
Lời nói kẻ khùng cùng đứa ngộ,
Rằng sao trời nắng khó kêu mưa.

Thâu

Nguyễn Văn Tự:

Kêu mưa Thầy buộc rưới mưa vào,
Ngặt hạnh chưa nên biết tính sao.
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.

Cư, chấp bút nhang đặng Thầy giải tà cho nó.

Trung, con viết thơ cho Ba Thảo - Mỹ Tho đặng nó lên hốt thuốc cho Tự nghe à.

Tắc! con cũng vì con cầu khẩn nghe.

Hồ Văn Nhứt:

Ba đào tuổi trẻ nhẫn linh đinh,
Con khá gìn ân kẻ giúp mình.
Rán sức đua chen trong thế sự,
Song thường sợ sệt phép Trời linh.

Thâu

Nguyễn Văn Dệt:

Trời linh mới có thưởng người lành,
Nếu chẳng thế gian cứ cạnh tranh.
Hột thóc chưa ai khoe biến sẵn,
Của kia xin nhớ phép Trời dành.

Thâu

Trương Văn Hòa:

Trời dành đến chết chẳng ai tranh,
Tưởng trọn mình thôi nghĩ quá thành.
Hiệp chữ đoàn anh lo giúp thế,
Thì con mới đặng buổi nên mình.

Thâu

Nguyễn Văn Ngọc:

Nên mình đừng ghét nỗi nên người,
Phải phải phân phân khá thức thời.
Một miếng mồi ngon câu cá lớn,
Mình nên con khá giúp nên người.

Thâu

Nguyễn Công Ân:

Nên người khá vẹn nợ quân thần,
Nghèo khó tuy vân đã phải phần.
Trung hậu thế thường đời ít có,
Ham chi kết bạc gọi là lân.

Thâu

Ðỗ Văn Nghị:

Lân ra ắt có Thánh quân ra,
Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.
Phải nhớ sang hèn con cái Lão,
Ðừng quen chê nhạo chánh cùng tà.

Thâu

Nguyễn Ngọc Lẳm:

Chánh tà có thế dễ chi phân,
Hễ có quân vương ắt có thần.
Mượn vẻ cân đai kìa mấy mặt,
Ðua tài cậy sức để an dân.

Thâu

Nguyễn Văn Nhâm:

An dân ắt cũng đặng lòng Trời,
Phàm thế chưa người đó hỡi ngươi.
Thà núp thú quê nghề phó nghị,
Thà theo Hạng Võ đỡ nâng ngôi.

Thâu

Nguyễn Hữu Ðại:

Ngôi hiền khó đoạt ví ngôi vua,
Nhà của ông Ngô quá nóc chùa.
Mình biết trọng mình Thần, Thánh trọng,
Ai xua ai đuổi đức ăn đùa.

Thâu

Nguyễn Thành Hoa:

Ăn đùa rẻ bán Lữ Vi vinh,
Một xảo trước kia sử giữ gìn.
Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,
Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.

Thâu

Lê Minh Tuấn:

Khương bình mình một chẳng chi hay,
Phải kiếm trăm năm kẻ nhắc tài.
An nước an dân toan bủa đức,
Sửa cơn nắng tối lại mưa mai.

Thâu

Lê Tâm Hảo:

Mưa mai nắng tối biết bao lần,
Lựa lọc chưa rồi nẻo các lân.
Tính lại mấy thu man mác phận,
Còn chi mong mỏi nghiệp hồng trần.

Thâu

Lê Văn Hội:

Hồng trần là biển khổ con ôi,
Cực nhọc đời kia quá ngán đời.
Những nỗi lợi xin cùng lộc mượn,
Hôm trông có vận buổi trông thời.

Thâu

Trần Văn Tài:

Trông thời Nghiêu Thuấn dễ chi trông,
Nên mặc ai chưa biết gã Tòng.
Chận kế đốt thơ khêu Mạnh Ðức,
Nghiêng mình ai ví gã Châu Công.

Thâu

Trương Văn Giáo:

Châu Công đưa nghiệp nối Nho phong,
Thánh đức còn nêu trí hoán phòng.
Thạnh nước câu văn hơn tiếng sấm,
Không trung đố kẻ thấy chim Hồng.

Thâu

Trương Văn Keo:

Chim Hồng thuận gió mới xa bay,
Thánh đức mới hay Ðạo nhiệm bày.
Thương kẻ nhơn sanh hơn xác thịt,
Chẳng lo cầu cạnh cũng ngồi ngai.

Thâu

Lê Minh Thức:

Ngồi ngai biết phận ấy ngồi chông,
Giữa tuyết lạnh đông buộc tưởng nồng.
Xác thịt Thầy vì không giáng thế,
Nên nhờ con giúp Ðạo nâng bồng.

Thâu

Lê Văn Nơi:

Nâng bồng qua khỏi chốn mê tân,
Mượn chiếc thuyền Tiên lánh tục trần.
Lời lẽ tuy Thầy chưa để dặn,
Nhưng tên tuổi trẻ ở Ðài Vân.

Thâu

Lê Văn Mẹo:

Ðài Vân quan võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.

Thâu

Ðặng Văn Có:

Phần Tiên Phật khó hiệp phần đời,
Phải biết diệt trần mới đến nơi.
Tiên cảnh nét đường không rước tục,
Thành không con dại cứ nghe lời.

Thâu

Lê Văn Ða:

Vâng lời Thánh ắt đặng siêu phàm,
Trần thế là chi để dạ tham.
Mua đức khá tua gieo cửa tục,
Chừng mô đức vẹn mới siêu phàm.

Thâu

Nguyễn Thị Kinh:

Siêu phàm nết gái để hơn trai,
Mượn nước nhành dương rửa cảnh đài.
Nắm phép Âm Dương đưa bóng lệ,
Thạnh cân bào huyễn đắc Thiên nhai.

Thâu

Võ Thị Giác:

Thiên nhai nào phải tại trần nầy,
Chẳng phải giữa trời chẳng khỏi mây.
Ðưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,
Theo chơn dõi bước níu sau Thầy.

Thâu

Nguyễn Thị Ðược:

Sau Thầy hứa chắc đỡ nâng con,
Thiên Ấn Thái Sơn cũng chẳng mòn.
Thành kính khá tua lo đạo đức,
Thêm công phái nữ lập vuông tròn.

Thâu

Thị Duyên:

Vuông tròn đạo hạnh gái toan lo,
Học giỏi thì chi cũng bởi trò.
Nói ít biết nhiều là trò giỏi,
Hay làm chẳng nạnh ấy là lo.

Thâu

Trần Thị Ni:

Lo cho con để đức hơn vàng,
May rủi cũng trừ đứa ngỗ ngang.
Trăm kiếp yên nhà vì Ðạo mến,
Thường đem chén ngọc đựng ngao vàng.

Thâu

Võ Thị Hiển:

Ngao vàng chứa sẵn nước Cam Lồ,
Thánh đức nhớ nguyền cái sắc cô.
Vải trọc hơn trang Hoàng Hậu thế,
Cửa chùa yên tịnh chẳng như đô.

Thâu

Trần Thị Tròn:

Như đô dời đổi nghiệp vua truyền,
Mình một phong quang mặc ngửa nghiêng. (quan?)
Ðóng cửa tụng kinh xem thế cuộc,
Bên lưng con chớ tưởng mang tiền.

Thâu

Phạm Thị Thành:

Mang tiền cỡi hạc đến Dương Châu,
Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.
Thiên định lẽ kia ai cũng chịu,
Hỏi người hỗ mặt giữa vườn dâu.

Thâu

Hồ Thị Diệp:

Vườn dâu đừng để thẹn thân mai,
Nét Ðạo khuyên con gắng chí mài.
Sửa tánh cũng như toan vá áo,
Gìn tâm như tối cửa then gài.

Thâu

Thơ, con làm Thánh Tượng vậy đặng; con phải tính thế in cho nhiều một lần thì giá rẻ chút ít nghe.

Ðặng con, Thầy biết một điều là trong hàng em út con đều là phần nghèo; một đồng nó đỡ một đồng nghe con.

Thầy ban ơn cho các con.

Phải Trung, phải Thầy.

Thái dương tiếp khí quản thiên minh,
Bạch tượng nhiên trung tửu khách tình.
Kim Khuyết đại tranh tông phái hội,
Tinh khôi cộng khởi lập điều đình.

Trần Văn Sô:

Ðoan chánh khá khen nết chẳng thường,
Người thương Thầy cũng để lòng thương.
Nam kia ví bẵng nhiều hàng mặc,
Ðạo đức chưa ai lạc nẻo đường.

Thâu

Bùi Văn Y:

Nẻo đường Tây Vức khó đưa chơn,
Phật trước Tiên xưa luống ngậm hờn.
Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,
Công danh ràng rực cột chôn chơn.

Thâu

Lê Văn Ðặng:

Chôn chơn vừa vặn cũng chôn hồn,
Chuông gióng u hồn nhẫn nhắc khôn.
Ví biết trần gian là biển khổ,
Ðạo mầu khá giữ lại cô thôn.

Thâu

Lê Văn Cứng:

Cô thôn nhắm hướng ngóng trời Tây,
Mới biết đời nay mới thiệt ngày.
Tiên Phật ở chung cùng thế sự,
Chẳng đi mà thấy cảnh Bồng Lai.

Thâu

Lê Văn Tỏi:

Bồng Lai chưa dễ để chơn phàm,
Của đống vàng kho chuộc chẳng kham.
Tùy tánh tùy tâm lo đức nghiệp,
Ðò xưa đưa rước đậu vào vàm.

Thâu

Lê Văn Thiện:

Vào vàm thế sự lắm gay go,
Nửa kiếp hằng lo mỏi sức trò.
Nghiệp cũ nhà xưa còn dấu bỏ,
Trông chi lừng lẫy tính nghề to.

Thâu

Phan Văn Tỏ:

Nghề to thì lại có lo nhiều,
Thà đặng buổi nào tính bấy nhiêu.
Gỗ nhỏ thành nhiều con khá gắng,
Khéo ăn khéo ở đặng nên chìu.

Thâu

Phạm Văn Yên:

Nên chìu mặt thế mới nên danh,
Ðừng để tà tâm đến dỗ dành.
Phải nghĩa phải nhơn là phải Ðạo,
Thà hư cho sạch rách cho thanh.

Thâu

Phạm Trung Dung:

Cho thanh tâm mạng mới vững vàng,
Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.
Khuất mắt phàm dễ ai ngó đặng,
Thầy đây đã hãn dạ cao sang.

Thâu

Nguyễn Văn Nho:

Cao sang chẳng mượn của thường tình,
Bao phủ mình con chút khí linh.
Chánh trực Thần Tiên còn nể mặt,
Huống hồ trần cấu động vào mình.

Thâu

Nguyễn Văn Chính:

Vào mình Thánh tước há nên mừng,
Thành đặng đôi đường phải đựng cân.
Thấy kẻ đặng vàng mình kiếm đá,
Ðua tranh chưa đủ sức ân cần.

Thâu

Nguyễn Văn Sự:

Ân cần lo lắng đắp nền nhơn,
Phước trước thừa sau có chút hườn.
Phân định lẽ Trời ra phép nhặt,
Ðức thì phước, ác họa tai phân.

Thâu

Phan Văn Võ:

Tai phân nạn trả lẽ thường thường,
Chớ tưởng mắt Trời ngó thiếu phương.
Non Thái dầu cao, cao hóa thấp,
Chậu kia dầu kín thấy thông thương.

Thâu

Hồ Văn Cho:

Thông thương ngó rõ tánh lòng người,
Con chớ tưởng lầm tiếng nói chơi.
Vè thử Thầy cho con đặng phép,
Làm sao cho khuất bóng Thần ngươi.

Thâu

Dương Văn Cử:

Cũng lúc láo tới lạo xạo,
Ðạo biết gì ham muốn mão.

Thâu cho làm đồng nhi, rán học giỏi sau Thầy cho đội con nghe.

Tr. Văn Giáo:

Thần ngươi xem khắp cả Càn Khôn,
Coi khắp nhơn sanh với giữ hồn.
Nếu trẻ biết quyền cầu khẩn thử,
Sang năm đổi số lạnh ra ôn.

Thâu

Ngô Văn Liêng:

Ôn hòa cứ mực xử cùng đời,
Nương bóng Cao Ðài đủ khắp nơi.
Nên mặt trò kia Thầy có giá,
Chưa khoe dạn nắng chiếu không phơi.

Thâu

Trần Văn Xường:

Phơi gan xử thế nết anh hùng,
Xấu mặt mà lòng thiệt rất trung.
Thầy để một lời khuyên trẻ nhớ,
Không duyên thôi chịu mạng nghèo cùng.

Thầy dạy con phải nghe, dầu con ham mến sự đời lại càng khổ cực.

Thầy cho con chức Lễ Sanh ở tại Thánh Thất tu hành nghe à.

Nguyễn Văn Nhãn:

Nghèo cùng mà chẳng bợn của ai,
Thân cũng yên thân, tánh chẳng nài.
Một mặt trung lương ai cũng rõ,
Nông trang ngày cũng rõ anh tài.

Thâu

Phan Văn Lực:

Anh tài chưa biết dựa quyền người,
Còn nói chi chi bổn phận ngươi.
Tranh đấu cuộc đời là huyết chiến,
Nhứt nhân chịu khổ, chịu người cười.

Thâu

Trung, con biểu buồn ngủ há?

Mai Văn Xinh: Thôi thì thâu.

Mai Bá Hi: Thây nó con Cư, cười.... Con biết chúng nó là chi của Thầy. Ðừng hiếp đáp, để mặc Thầy dạy dỗ. Thâu.

Nguyễn Văn Lượng: Thâu nữa.

Nguyễn Văn Hạp: Cũng thâu.

Lê Văn Tao: Thâu.

Nguyễn Văn Tỏ: Thâu.

Mắc, Thầy dặn con cứ nghe lời Thầy. Con nghe: Thầy giúp con làm công quả đặng chuộc tội cho cha con và cứu Cửu Huyền Thất Tổ con, song tùy theo con chứ Thầy cũng phải giữ lẽ công. Chừng nào con làm đủ âm chất, Thầy sẽ cho cha con nhập cơ mà hội diện với con nghe à.... Cười.

Còn sắc phục con phải mặc nịt một sợi dây lưng ba màu: vàng, xanh, đỏ; có chữ ngay giữa: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và một cây trương, trên có lá cờ cũng đề như vậy.

Bộ y phục như của Tạ, nghe à ....

Sanh, con đừng lo lắng quá nghe.

Thầy muốn gìn giữ lại đôi lát, chờ ngày nào Thầy định sẽ hay. Con nói lại với vợ con nghe, Thầy sẽ nói với nó, vì của ấy còn cao giá nữa hiểu à?

Trần Văn Hên: Thâu, Thầy cho con ở chùa tu hành, cũng đặng chức Lễ Sanh vậy.

Mỗi Nữ phái đều thâu con. Cư xem mau mau xuống giải tà cho một người phụ nữ nghe. Ngày mai Thầy sẽ cho Nữ phái thi.

 


 

Q.2-018. Ngày 02-12-1926 (âl. 28-10-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy "... sắp đặt trang nghiêm trong Thánh Thất...".

 

Jeudi 02 Decembre 1926 (28-10-Bính Dần)

THÁI BẠCH

Thiên Phong bình thân, Bần Ðạo chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội.

Thầy sai Bần Ðạo đến sắp đặt trang nghiêm trong Thánh Thất.

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu từ đây cấm không cho Vĩnh nhập Ðàn.

Thanh Hương, từ đây Hiền Muội cấm không cho... nhập Ðàn nghe.

Bần Ðạo phân phép từ ngày nay hễ nhập Thánh Thất thì phải giữ phép Nam Nữ bất thân: Nam ở Ðông hiên, Nữ ở Tây hiên.

Hai bên không đặng lân cận nhau. Nam theo nam, nữ theo nữ, cấm cười cợt trửng giỡn với nhau, trừ ra vợ chồng hay là chị em ruột, anh em ruột đặng chuyện vãn với nhau nơi Tịnh Ðàn. Còn kỳ dư như hai đàng muốn chuyện vãn nhau phải có hai người chứng: một bên nam, một bên nữ.

Phòng trù dù phải chung lộn nhau buổi nấu nướng, khi dọn ăn chẳng đặng lộn xộn cùng nhau nghe à.

Thơ Thanh, Hiền Hữu phải viết luật cấm nầy dán nơi Thánh Thất nghe à.

Quới, ngươi ở đây lo công quả chớ chẳng phải có mặt lấy vị nghe không, liệu lấy. Phải chỉnh Ðàn cho Thầy giáng.

 


 

Q.2-019. Ngày 03-12-1926 (âl. 29-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ.

 

Ngày 29-10-Bính Dần (03-12-1926)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ, hỉ chư Tín Nữ,

Hầu Ðàn: Thầy cho chư Nhu cầu Ðạo, thượng sớ.

Minh Lý: Thầy cho các con sắm lễ đi, cho khỏi phụ tình em út các con.

Ðại phục: Cười .... Bỏ Thánh Thất há?

Thái Bạch giận đa con, sai người khác đi như Hóa Thầy cho phép.

Hợi, con ôi nó còn chưa biết tu là chi hết.

Con cứ đi ??? Cười.... Chẳng hữu ích nhiều mà con thức tỉnh nó lần lần coi.

Lê Văn Ðâu:

Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,
Thế thượng không ai biết giá nài.
Giá một cuộc trần nhiều kẻ chuộng,
Nay con nên nghiệp khỏi ai nài.

Thâu

Nguyễn Văn Xiên:

Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
Ðưa rước như đò đông buổi chợ,
Nửa phần liệu túi, nửa đưa tay.

Về lo ăn năn tội trước nghe.

Nguyễn Văn Nhiều:

Nhiều cơn sóng dập gió thêm dồi,
Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.
Thầy dặn biết tu Thầy cải số,
Nghèo hèn có thuở dựa cao ngôi.

Thâu

Nguyễn Văn Ký:

Ký thành một cuốn gọi Thiên Thơ,
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.

Thâu

Nguyễn Văn Lục:

Lục thông trần thế chẳng ai hay,
Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.
Thầy đến nói thời con định quả,
Ðừng chờ rốt cuộc hẹn không ngày.

Thâu

Nguyễn Văn Nhì:

Nhì thân ai biết có bên mình,
Một cái là phàm, một cái linh.
Vắng dạng nhưng trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.

Thâu

Nguyễn Văn Chánh:

Chánh tà hai lẽ thế mờ hồ,
Giả thử thấy chuông ướm nói ô.
Thiên Ðịa cảnh Trời xây trước mắt,
Thấy cơ định vật ấy là đồ.

Thâu

Lê Văn Tăng:

Tăng thôi một kiếp cũng là duyên,
Chẳng định trước kia ước chẳng tuyền.
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.

Thâu

Nguyễn Văn Thượng: (Thường?)

Thường xem khí số biết Thiên Cơ,
Hết kiếp trần ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá Tước gánh đồ thơ.

Thâu

Trang Văn Lục:

Lục chu may trộn giống màu thanh,
Bô vải mà che một tấc thành.
Nam khí hưng suy dân khí phát,
Nên trang anh tuấn mặt tài danh.

Thâu

Nguyễn Văn Tuất: (Tuấn?)

Tuấn tú thay một mối cơ đồ,
Chẳng biết giữ gìn xúm lại xô.
Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,
Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.

Thâu

Bùi Văn Ðứa:

Ðứa nên ai lại nỡ làm hư,
Con cũng có công đức đến chừ.
Thầy phải đếm dư vì vắng mặt,
Phong làm Giáo Hữu trả ơn trừ.

Thâu

Nguyễn Văn Tửng:

Tửng chơi cho hiệp ý con cầu,
Thầy dạy con về đến Suối Sâu.
Gặp mặt hai chàng đi hỏi Ðạo,
Thì con dắt nó đến đây cầu.

Thâu. Giỏi Thầy sẽ thưởng công.

Lê Văn Hành:

Hành thuyền kỵ mã miệng đời chê,
Thầy tưởng thân con tỉ Thúc Tề.
Giữ nghĩa hay quên lo nỗi hiếu,
Nương đường đạo đức khó trăm bề.

Thâu. Về lo luyện tánh lại nghe.

Nguyễn Văn Phú:

Phú cho Tạo Hóa ấy là Thầy,
Muôn thảm ngàn cay đến bỏ đây.
Thầy vốn như người khiêng gánh mướn,
Ðau đau thảm thảm chở cho đầy.

Thâu

Nguyễn Văn Hoằng:

Hoằng thân mảng những cúi lòn hoài,
Chẳng nở mặt cùng đối với ai.
Thương đời để dạ thương còn quả,
Trước muốn tiêu tai ách giữ ngay.

Thâu

Nguyễn Văn Giác:

Giác thế muốn trông mấy phép lành,
Khuyên đời chớ mến lợi cùng danh.
Trăm năm chưa hẳn ngoài căn số,
Ðịa vị đỉnh chung chớ giựt giành.

Thâu

Nguyễn Văn Còn:

Còn đời chìm nổi lắm gay go,
Tu đặng đâu tua hỡi bớ trò.
Thôi cứ thành tâm làm phước mãi,
Không nên danh Thánh cũng đưa đò.

Thâu

Huỳnh Văn Bá:

Bá tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương chơn chưa quyết thân còn vững,
Níu thử cân đai thấy nặng trì.

Thâu

Nguyễn Văn Cận:

Cận hiền như thể dựa chi lan,
Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.
Biết Ðạo dù ai toan muốn hiếp,
Lòng trong e lệ giống hầu quan.

Thâu

Nguyễn Văn Trì:

Trì tâm tu hướng đáo Tây Phương,
Bất viễn kiêm môn hữu mã đường. (kim?)
Huỳnh khuyết dĩ văn tâm khẩn nguyện,
Thành khôi đắc thế hiệp trinh tường.

Thâu

Trương Văn Hòa:

Hòa trên thì dưới mới an tâm,
Mình vốn là anh chấp lỗi lầm.
Thương vợ cũng đồng em út vậy,
Một bên cốt nhục nọ tình thâm.

Thâu.Về sửa gia đình lại tái hầu.

Bùi Thị Tài:

Tài hay con bớt nết hung hăng,
Phải sửa mình hay chịu nhọc nhằn.
Có lỗi không tu nhà biến nạn,
Phương hay là phải dạ ăn năn.

Thâu

Trương Thị Bèn:

Ban mai ai đẩy mặt trời lên,
Không đặng cao sang chí kém bền.
Nặng gánh thì con toan ít chở,
Chẳng khoa mà lại vọng nêu tên.

Thâu. Con đợi lịnh Thái Bạch con.

Thầy ban ơn cho các con. Thăng.

 


 

Q.2-020. Ngày 04-12-1926 (âl. 30-10-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Samedi 4 Décembre 1926 (30-10-Bính Dần)

THÁI BẠCH KIM TINH

Chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,

Ðạo Quang, Hiền Hữu nghe:

Nơi Thánh Thất nầy chưa ai gọi mình lớn hơn ai, vậy Hiền Hữu cũng phải thủ lễ như thường nghe.

Thầy dạy Lão sắp đặt cho nghiêm khi làm lễ, những kẻ quạt xuất ngoại.

Từ đây không cho phép vậy nữa.

Kiệt, Hiền Hữu đặng thọ phong Giáo Hữu. Chỉnh Ðàn cho nghiêm đặng Thầy giáng.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Cười .... Thầy xin không thôi thì Thái Bạch đã mời Như Nhãn vào đặng nhục mạ rồi. Thầy nói ít các con hiểu nhiều nghe. Trung, Trang, Tương, Thơ, Hóa, Thanh Hương, các con lo tính như Thầy đã dặn? Chẳng lẽ các con đã thấy nó khi mạng lịnh Thầy dường ấy ngồi ngó cho đành.

Hương Thanh xin lựa cất Thánh Thất nơi gò đất gần đó cho xứng đáng.

Không Ái Nữ, chi chi cũng tại đây mà thôi con.

Môn Ðệ Thiên Phong xin hồi tiền lại cho Hòa Thượng Giác Hải.

Phải vậy rồi.

Các con sẽ thấy Thầy trị chúng nó thể nào.

Lâm Thị Ái Nữ, con đừng rầu buồn lo lắng, để Thầy định liệu với mấy anh con.

Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ. Chư Môn Ðệ bình thân. Kiệt lạy Thầy tạ ơn Thiên Phong Giáo Hữu.

Kiệt, con đáng công cho Thái Bạch ban thưởng. Thầy mừng cho con.

Trịnh Thị Thị, con là Môn Ðệ Thầy rồi....

Tạo:

Tạo nên sự nghiệp thế ai màng,
Chưa đến đài mây đã đặng sang.
Trau chuốt nền nhơn con gắng vó,
Thầy đây sẽ để một ngôi hàng.

Thâu

Hứa Thị Nhiều:

Nhiều phen than thở phận côi cùng,
Chẳng biết cùng ai tỏ dạ trong.
Nương bóng liễu chờ nhành bá gặp,
Thương thương chưa biết lẽ nên không.

Thâu

Xúc:

Xúc lòng nhắm lại cảnh trời Nam,
Một sắc dân xưa chẳng phải phàm.
Cũng bởi Ðạo lầm nên mất nước,
Chịu nhiều khổ não lắm trân cam.

Thâu

Nhị:

Nhị Châu chẳng hiệp với Bộ Châu,
Như chỗ nghỉ ngơi với điện hầu.
Trước có duyên xưa mong mỏi đến,
Khá lo tu niệm Ðạo cao sâu.

Thâu

Phạm Thị Thành:

Thành lòng đi đến chốn điện đình,
Lòng thật Phật Trời mới thiệt linh.
Lửng đửng lờ đờ chưa quyết đoán,
Tin Trời tin Phật trước tin mình.

Dương Văn Ngọ:

Ngọ chưa thấy bóng kế Mùi sang,
Trông đặng vinh huê hưởng chữ nhàn.
Như lúc Tử Nha đưa cán trúc,
Câu thời câu vận cá nào ăn?

Hữu:

Hữu ái con tua để tấc lòng,
Giúp đời công ấy vốn đầu công.
Nên người mình biết nên mình vậy,
Ðừng cách phàm tâm tánh dự phòng.

Ngô:

Ngô chưa quét Thục Ngụy tranh phong,
Một dãy non sông chứa bá tòng.
Bền chí để ngươi xem bát địa,
Trời đương un đúc đấng anh hùng.

Miêng:

Miêng trường có một nẻo là tu,
Thương đám nhơn sanh nhẫn viết mù.
Nếu đặng thật lòng lo cứu chúng,
Thầy đành giao đứt một Tiên chu.

Sau trọng dụng.

Sang:

Sang hèn trối mặc nhún cùng trề,
Phải biết giá mình mới biết chê.
Ðứa trẻ chưa quen quyền Lão xá,
Ðái đầu rán chịu ướt dầm dề.

Cười ... Thâu.

Tho:

Tho thơm chi cũng vốn mùi đời,
Chưa kẻ dùng nên của để chơi.
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.

Bính:

Bính niên ngộ đắc vận thời lai,
Tâm diệt phàm trung Ðạo cả hoài.
Tại nội bất tri Thiên sắc tứ,
Năng tu quả nhựt diệu cân đai.

Chạy:

Chạy Trời trốn nắng ít ai lo,
Còn mảnh phàm tâm khổ nỗi trò.
Muốn cải cho qua căn số định,
Ngừa chừng giận dữ lúc giông to.

Quí:

Quí cho những kẻ tánh thiên nhiên,
Chẳng phải là ngu thiệt bởi hiền.
Trời Ðất trăm ngôi đà chín chín,
Tánh tình dường ấy vốn là Tiên.

Khiêm:

Khiêm cung từ thuở tuổi thơ sanh,
Thương mẹ hiếu cha lắm nhọc nhằn.
Công quả ấy Thầy đà chép trước,
Nay xem tạng mặt thấy tu đành.

Nhâm:

Nhâm huyền nhứt khí nguyệt thanh quang,
Thùy vấn hà môn chỉ thị càng.
Thiên Ðịa vô ngôn thường tại thế,
Bất tri hà xứ kiến tinh quang.

Thiên:

Thiên thơ dĩ định nhứt danh qui,
Tam Giáo quy nguyên chỉ thị kỳ.
Ðạo thị tối cao vô thế đoán,
Hà nhơn đảm tánh đáo khinh khi.

Ðinh:

Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,
Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời.

Hà Văn Ðược:

Ðược thì mừng tu cực thì lo,
Phải nhớ câu thì lựa cá to.
Ngồi đợi nóng lòng đừng rút nhợ,
Cả ngày buồn giựt chẳng nên trò.

Võ Văn Nam:

Nam nhi có nợ của song thân,
Biết chút lúa ăn chịu Ðạo phần.
Mình muốn rảnh rang Nhơn đạo xử,
Xong xuôi rồi mới đến Ðài Vân.

Lê Văn Triều:

Triều thần mang nặng vẻ đai cân,
Lòn cúi chìu theo một Ðạo thần.
Nương bóng hạc cầm vui ít kẻ,
Hay chi quì lạy đứng ngoài sân.

Lê Văn Tài:

Tài mạng thường hay ghét lẫn nhau,
Hễ là có nhọc mới danh cao.
Chưa người nằm giữa nhà chờ của,
Biển nọ muốn qua mặc sóng nhào.

Phạm Văn Quí:

Quí là tánh hạnh chẳng khoe khoang,
Cười kẻ trong lân tới cửa làng.
Hay tánh giúp cô đôi lúc chịu,
Nhọc thân chẳng quản cứ bền gan.

Thầy khen.

Lai:

Lai Châu tiếng hạc gáy reo vang,
Sao chẳng tỉnh mê giấc ngỡ ngàng.
Năm lụng ngày qua thêm chất tuổi,
Những là lỡ lính với lừa quan.

Sánh:

Sánh vai Sào Phủ ẩn danh xưa,
Vì nẻo lợi danh cũng đã thừa.
Mau bước lui lần qua cõi tục,
Cười khan vui khóc thấy hay chưa.

Thờ: (Thời?)

Thời lai gió đẩy đến Ðằng Vân,
Thường biết mình tuy cũng kép bần.
Như ốc mượn hồn đời há tiếc,
Bỏ qua cho rảnh kiếp phong trần.

Phạm Văn Nghé:

Nghé nghe thì lóng tiếng hiền lương,
Ðạo đức con tua giữ một đường.
Biển đổi non dời đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.

Nguyễn Thị Bày:

Bày đờn ai khéo sắm đờn đây,
Ðể quỉ để ma ở cả bầy.
Lẩn bẩn cứ theo toan cám dỗ,
Làm cho nên nỗi Ðạo xa Thầy.

Thầy khuyên các con coi Thánh ngôn là quí trọng.

Nguyễn Thị Tỏ:

Tỏ cùng vì gió nhắn chim Hồng,
Ngán bước đường mây mỏi dạ trông.
Gát nhớ riêng than câu biệt khách,
Phui pha qua lúc thẹn mình hồng.

Thị Kén:

Kén tài mà lại chẳng nên tài,
Chẳng khác như nhằm rủi ước may.
Ðợi bóng thiều xế ngang cửa sổ,
Thành không thì cũng nội năm nay.

Phạm Thị Tiếng:

Tiếng đời hằng nói phước do lành,
Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.
Thiếu thốn chi con còn bức xách,
Thương nhau đồng loại cội và nhành.

Võ Thị Tỵ:

Tỵ hiềm đừng để khí xung thiên,
Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
Cầu nguyện Thần linh là thuốc báu,
Trong điều tai nạn bởi không hiền.

Thị Hội:

Hội xem cho rõ phép Thiên Hoàng,
Cầu lếu những điều của dị đoan.
Biết Ðạo biết tu là kế khéo,
Lựa là nay chọn với mai sang.

Thầy không cho cầu thuốc nghe.

Trì Chia:

Trì Chia người Thổ thiệt,
Ðạo đức kia còn biết.
An Nam thiệt giống Nam,
Vô Ðạo coi muốn hết.

Hòa Rấu:

Hòa rấu tại nhà đã đủ đôi,
Không thua ai ngày đủ hai nồi.
Phật Trời chứng chiếu lòng con thảo,
Lễ cúng Thầy đều đặn hưởng xôi ...

Cười ...

Cung:

Cung kính Phật Trời vốn họ ngươi,
Thầy khen cũng hết tỏ ra lời.
Thờ Thầy nếu đặng lòng thành thật,
Thầy giúp tuổi già đặng thảnh thơi.

Nội khuya bữa ấy có chư Nhu ở Soài Riêng qua xin nhập môn, giữa đường rủi bị đụng xe nên đến trễ. Bèn chỉnh Ðàn tái cầu.

 


 

Tái Cầu:

THÁI BẠCH

Quỉ Vương đại ác.

Chỉnh Ðàn nghiêm trang Thầy ngự.

 


 

THẦY

Các con.... Cười....Thượng sớ.

Ðỗ Ðơn Hóa:

Hóa đức thiên tâm tắc Ðạo khai,
Hà do ngạ loại quỉ đương tài.
Phiêu phong chánh khí thiên thu tạo,
Tân thế minh oan đắc đảnh đài.

Thầy sẽ lập vị cho con nơi ấy... Thâu.

Lê Văn Nhu:

Nhu phong chánh pháp nhủ truyền gia,
Ngọc mã kim môn đắc địa hòa.
Thánh chí biến sanh Nam Quốc vượng,
Thần oai hội hiệp tụng âu ca.

Thâu

Ðặng Quang Mão:

Mão đai đặng thuở hoạn đường dò,
Mảnh thế nhiều phen chịu đắn đo.
Tháng lụn chờ cơn nơi nẻo chánh,
Thầm than chưa mặt đáng vai trò.

Thâu

Bùi Trừ Phòng:

Phòng cơn bình địa nổi phong ba,
Con nhớ ngày nay đã có nhà.
Phải mắt phải tai tua cứu chúng,
Khỏi nơi khổ hải chịu mình sa.

Thâu

Nguyễn Văn Nhượng:

Nhượng cho kẻ trí dắt dìu mình,
Phải biết lóng đời nỗi trọng khinh.
Âm chất lo trau mình vẹn trước,
Trị đời đáng thế đến hòa bình.

Thâu

Lê Văn Giảng:

Giảng lời đạo đức dạy người hiền,
Chẳng phải là quan ấy mới Tiên.
Lợi lộc chê hơn câu tiết nghĩa,
Ðừng qua nửa bước quá rừng thiền.

Thâu

Ðoàn Văn Trọng:

Trọng câu phước đức dạ lo nhân,
Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.
Phú quí ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an.

Thâu

Nguyễn Văn Ðức:

Ðức cao thì mới đáng nên người,
Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.
Có đức có tài giềng Ðạo trọng,
Không tài không đức hóa không thời.

Thâu

Nguyễn Văn Bộc:

Bộc thì tu khảo thế huyền linh,
Thành đọa tùy công sở Ðạo hành.
Gia thế kiêm triêu thừa phúc hậu,
Thiên quang chánh đức dĩ khai minh.

Thâu

Trương V. Quãng:

Quãng trí minh tâm tắc thức thì,
Hành tàng huyền diệu thế nan tri.
Kỳ tâm sở hướng tà hồi chánh,
Ðắc cảnh Thiên ban hóa dạ trì.

Thâu

Trần Văn Ðước:

Ðước tánh còn lo lắm nợ đời,
Ðường tu chưa đặng bước xa khơi.
Trong Trời miễn trẻ đòi ngày tưởng,
Dạ vọng từ nhiên hóa tiếng mời.

Thâu

Nguyễn Văn Quãng:

Quãng chi cái số thảm cùng sầu,
Ở thế mà ngờ tưởng ở đâu.
Thương chút tấm lòng thành thật vậy,
Nhiều khi sợ lỗi với trên đầu.

Thâu

Võ Văn Niên:

Niên ngoạt nhựt thời hữu định phân,
Bất tri thế sự thị phong vân.
Thương tâm hoài cổ lưu linh chí,
Thiện ác tùy công diệt đọa trần.

Thâu

Lê Văn Nhân:

Nhân là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhân dân hóa quan.
Dân có trí nhân nhà nước trị,
Nước nhà nhân thiệt một cơ quan.

Thầy khuyên Nhân phải tu nhân nghe. Thâu.

Nguyễn Ðăng Khoa:

Ðăng khoa thì có chức thì không,
Nghĩ đến thẹn cho mặt Tử Phòng.
Dưới đích làm ngai Tam Quốc vịnh,
Thầm lo có một tiếp Châu Công.

Thầy khuyên khá kiếm cao kỳ mà hiểu nghe. Thâu.

Võ Văn Tỵ:

Tỵ ác thân hiền mới phải trang,
Cũng trong xã hội một quan làng.
Ðưa đời ví biết vì dân dại,
Thì trước con tua dạy một làng.

Thâu

Ðài Văn Lía:

Lía lịa mà chưa biết niệm đời,
Những lo nắng sớm với mưa mơi.
Cơm ngày hai bữa dư chi uổng,
Mặc thế đua chen thói bốc rời.

Thâu

Nguyễn Văn Truyện:

Truyện tích từ xưa chỉ dạy rằng,
Mặt đời trung nịnh dễ ai ngăn.
Minh mông Trời Ðất còn không lọt,
Huống lấp tội tình khỏi lưới giăng.

Thâu

 


 

Q.2-021. Ngày 06-12-1926 (âl. 02-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ, lập Tân Luật và dạy đạo.

 

Lundi 06 Décembre 1926 (02-11-Bính Dần)

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Nữ,

Tửu.... Ða tạ.... Ða tạ.

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe. Ngọc Lịch Nguyệt nghe. Ða tạ.

Nhị vị Hiền Hữu có mặt tại đàn Minh Lý há? Bái tửu. Cười....

Nhị Hiền Hữu có biết Tề Thiên ngày hôm qua Tề Thiên nào chăng? Cười.... Ấy là Tề Thiên ngày Ðại Lễ, nhập xác cho Vĩnh của Lão đến nghe à.

Ta khen cả 4 vị Hiền Hữu chẳng bái lễ, thật rất phải thật rất hay, khen khen khen....

Tắc ngày ấy không có mặt, đừng vậy nữa.

Lễ chi? Ấy là cách chơi của lũ trẻ.

Từ đây đọc câu kinh nầy lại như vầy:

"Từ bi cứu thế giáng từ thiền".

Thượng Trung Nhựt bạch: Xin Ngài từ bi sửa kinh lại luôn thể.

- Lão sẽ đặt lại hết. Chỉnh Ðàn cho Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ, chư Nhu, chư Tín Nữ,

Trung bạch Thầy xin cho đình lại qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp luật cho Thầy phê chuẩn....

Phải ở luôn luôn nơi Thánh Thất đặng lập luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập "Luật Tu" gọi là "Tịnh Thất Luật", kế nữa lập "Luật Trị" gọi là "Ðạo Pháp Luật", ba là lập "Luật Ðời" gọi là "Thế Luật", các con hiểu à?....

Hồng, con phải đợi ngày nào Thánh Thất an rồi, Thầy sẽ liệu định cho chư Huynh con lo liệu nghe à.

Chư Nhu thượng sớ:

Lê Quang Tường:

Tường quang nhứt khí chiếu minh thiên,
Ðạo thủ khả tri ý diệu huyền.
Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào trang thỉnh nhập cửu nguyên nhiên.

Thâu

Chư Môn Ðệ biểu cả chúng sanh vào trong, dặn nó đứng gần cửa cho có hàng ngũ và an tịnh đặng nghe Ðạo.

Võ Văn Bửu:

Bửu kinh đệ chiếu triệu qui hồi,
Khả tác từ duyên bất cử bôi.
Thiên Ðịa vô công Nam nhập hội,
Thành tùy luật khích nhân dân hồi.

Thâu

Nguyễn Văn Nén:

Nén hương đưa đủ nguyện lòng đưa,
Thầy khá khen cho tánh dối lừa.
Trời để mắt xem đời thiện ác,
Dữ răn lành thưởng thấy hay chưa?

Khá cải tà qui chánh nghe. Thâu.

Ðặng Văn Viết:

Viết thành một bổn hiển Thiên Thơ,
Ðã trước muôn năm để tới giờ.
Lành dữ kiếp căn gần ngàn lượt,
Một phen lau sạch nợ thờ ơ.

Thâu

Lê Văn Tiền:

Tiền duyên hậu vận rất vừa nhau,
Chẳng có một ai gọi khởi đào.
Mình muốn cải Trời là tưởng mộng,
Ðể xem cơ Tạo sẽ làm sao.

Thâu

Ngô Văn Bá: (Thanh Ðiền, Tây Ninh)

Ðá bia danh tạch chẳng bền chi,
Cái khó tua lo kịp với thì.
Danh lợi từ nhiên theo đạo đức,
Ðặng hay điều dở có lo chi.

Thâu

Phụ ghi: ...danh tạch... chúng tội nghĩ có thể la?...danh tạc...

Nguyễn Văn Khách:

Khách du Tiên đời chẳng mấy người,
Cứ bốn điều tà gấm ghé chơi.
Cuộc rượu mắc hơn trăm kệ tụng,
Ðường oan nẻo tội hiếm người mời.

Thâu

Trung, từ đây sắp Ðàn nghiêm nghị một lần, rồi cứ đứng chỗ nầy chớ đừng làm có tiếng tăm nghe.

 


 

Tái Cầu:

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Chư Nhu thượng sớ.

Nguyễn Văn Ðức:

Ðức tánh khen con có chí thành,
Lần đường đạo đức chẳng cầu danh.
Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,
Chẳng quản lao lung giữ tiếng lành.

Thâu

Phạm Ngọc Mai:

Mai tuyết đua chen trận gió đông,
Chia hai sắc trắng vẻ màu hồng.
Ðưa duyên đã lắm cơn may mắn,
Trước cửa khoe tươi cợt ả hồng.

Thâu

Trần Văn Gạo:

Gạo châu củi quế gặp thời hư,
Biết bấy lâu chờ gặp thói dư.
Mãn nguyện chưa xong gia sự biến,
Còn lo một nỗi sắc còn tươi.

Thâu

Nguyễn Văn Nhương:

Nhương là không nghĩa vốn không người,
Cái tánh dị thường ấy giống ngươi.
Chặt chịa cùng đời chưa rõ ích,
Thân còn lững chững nợ chưa rồi.

Thâu

Mai Văn Xuân:

Xuân thu biết đã đặng bao rồi,
Nghiệp chẳng nên mà vận chẳng xuôi.
Gặp lúc tai bay hơ hẫng chịu,
Lần theo đường Ðạo nợ đời rồi.

Thâu

Ðoàn Văn Thương:

Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu,
Ăn thể ăn đi chịu thảm sầu.
Con vốn như người Thầy nói đó,
Biết ai con trả lại đôi câu.

Biểu nó nói.... nhà Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu.

Lũ bây cũng chưa hiểu thơ há? Cho nữa vô ích. Thầy nói Thương là nhà Thương, các con hiểu thương là thương, ngu ngu ngu....

Cư, con đọc già đời cũng vậy há.

Thằng Thương nó giống như Bá Di, Thúc Tề nó mới chịu khổ vậy đó các con.

Nguyễn Văn Nở:

Nỡ đem thân ngọc bỏ đồng không,
Hiu hắt một thân chẳng biết giòng.
Lo liệu chưa qua điều sở vọng,
Nay toan để bước lối nâu sồng.

Thâu

Phạm V. Truyện:

Truyện tích xưa ghi lẽ khí trung,
Cũng là giòng giống đấng anh hùng.
Bởi chưng chưa biết quyền Trời Ðất,
Lại để cháu con gánh não nùng.

Thâu

Trương Văn Nho:

Nho truyền đã lắm nhục bề Tiên,
Mặt thế chưa ai biết nét hiền.
Có lợi cho danh thường hiếp chúng,
Vì điều oan nghiệt tổ tiên truyền.

Thâu

Võ Thị Xòn:

Hầu Ðàn nữa, khá trai giới, cải tà qui chánh.

Trương Văn Chua:

Chua cay đã chịu lắm mùi đời,
Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.
Kẻ hiếp người khi vì chánh trực,
Gặp Thầy khi trẻ đặng an nơi.

Thâu

Phạm Thị Yến:

Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng,
Còn mang dép rách đến Quang Trung.
Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,
Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.

Thâu

Nguyễn Văn Bạch:

Bạch thủ thành gia ít kẻ tài,
Cũng như Huệ Mạng thế không hai.
Việc đời chẳng khác quyền Trời Ðất,
Duy cứ đức đong đến võ đài.

Thâu

Nguyễn Văn Trữ:

Trữ đức còn hơn muốn trữ vàng,
Giàu sang chẳng chuộng gánh giang san.
Hễ đời càng dữ càng kiên đức,
Võ lực hùng oai cũng chẳng màng.

Thâu

Thầy dặn từ đây, hễ có cha mẹ các lũ trẻ nào đã làm Môn Ðệ, đừng để chúng nó làm rộn Thầy như vậy nữa nghe.

Lê Thị Trước:

Trước lâm chứa đặng bảy ông Hiền,
Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
Hồng cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.

Thâu

Giác:

Giác đời từ thử một mùi thiền,
Ðã đợi Phật duyên, gặp Phật duyên.
Hé mắt nửa ngờ còn nửa tưởng,
Tính đi tính lúng đặng như nguyền.

Cười.... Thâu.

Trung, con nói với chúng nó nơi Thánh Thất nầy duy để cho chúng sanh cầu Ðạo mà thôi.

Qua ba tháng, Thầy sai Lý Bạch cho thuốc và gia đạo.

Chẳng lẽ bậc Chí Tôn như Thầy, mà cho hỏi những việc phi thường dường ấy. Thầy ban ơn cho các con.

 


 

Lundi 06 Décembre 1926 (02 tháng 11 năm Bính Dần).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ, chư Nhu, chư Tín Nữ,

Ta vì lòng Ðại Từ, Ðại Bi, vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi, và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế nầy.

Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới; mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề, đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.

Ai đặng phước thì trí não vẫn thanh cao, lòng tin tưởng càng thêm cao trọng. Ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội; biết biết không không, luật Trời đã định phần; công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước khách tục lúc chung qui đó.

Sanh nhằm đời có một Ðạo chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non cao kiếm ngọc lại càng khó; khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức, sau ăn năn rất muộn.

 


 

Q.2-022. Ngày 07-12-1926 (âl. 03-11-Bính Dần): Ðức Quan Thánh Khai Ðàn Huỳnh Văn Sĩ..

 

Mardi 07 Décembre 1926 ( 03 tháng 11 Bính Dần).

 

Khai Ðàn Huỳnh Văn Sĩ.

Thiên Phong bình thân.

Quang minh khá rõ chánh cùng tà,
Thánh đức ngôi xưa chẳng ở xa.
Hữu phước sẵn Thầy năng cải số,
Kỷ cang liệu để tánh ôn hòa.

 

Quan Thánh Ðế thừa mạng Ngọc Hoàng Thượng Ðế khai Thiên Bàn. Khai Ðàn.

 

Nguyễn Văn Hùng:

Hùng suy đã lắm thảm buồn vui,
Cái bả vinh hoa hưởng đủ mùi.
Ðạo đức thần linh không kẻ chuộng,
Éo le hơn thiệt gánh không rồi.

Quan Thánh Ðế đại hỉ, đại hỉ.

 


 

Q.2-023. Ngày 08-12-1926 (âl. 04-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Mercerdi 08 Décembre 1926 (04-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,

Chư Nhu không miệng há?

Tưởi! Hiền Hữu từ đây phò loan không đặng đọc nữa, Lão cấm. Cả chư Thiên Phong xúm đọc.

Ðạo Minh Hiền Muội, Thầy đã dạy Lão rằng Hiền Muội xin đi phổ độ.

Thầy dạy Lão cho phép Hiền Muội đi vậy.

Hiền Muội lãnh chức Nữ Giáo Sư đi từ Rằm tháng nầy cho tới Rằm tháng tới phải có mặt tại Thánh Thất hầu Ðại Lễ. Hiền Muội gắng công hiệp Nữ phái Minh Ðường lại thì công ấy không phải nhỏ; quyền hành thưởng phạt Lão công bình.

Hiền Muội khá lo công quả, Thầy dặn chư Ðạo Hữu lo bề hành lý; Hiền Muội bình thân, chỉnh đàn Thầy đến.

 

Phụ ghi: Tưởi! Hiền Hữu... chúng tội nghĩ có thể là Tươi! Hiền Hữu...

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Nhu, chư Ái Nữ,

Trung, con rán coi nghe.

Bính, Thái Bạch phiền rằng con dở nghe con.

Chư Nhu thượng sớ:

Là phần đã định trái oan xưa,
Một nghĩa phu thê khá lọc lừa.
Nghiệp cả nhà cao không phải phận,
Ðiềm may sau cũng hội công hầu.

Thâu

Trần Văn Lộc:

Lộc xưa chẳng đức giữ cho bền,
Phường chạ nay đành gởi tuổi tên.
Nợ nước ơn nhà đôi gánh nặng,
Một lòng son sắt khá cho bền.

Thâu

Trần Văn Báu:

Báu nhà chữ hiếu đứng làm đầu,
Biết Ðạo thì con biết nghĩa sâu.
Dưới gối nhiều lời đưa nọc rắn,
Mài gươm con khá mượn mưu mầu.

Thâu

Trình Văn Dính:

Dính Thiên muôn ác động lòng người,
Con chẳng sửa lòng đến tưởng chơi.
Ngoài mặt thì đời hằng dễ thấy,
Trong tâm biết đặng có ông Trời.

Thâu

Trần Văn Nai:

Nay về đảnh Hớn bỏ đền Tần,
Ðẹp mắt xem đời đã cải tân.
Góp một nhà chung dân mấy sắc,
Người người Thầy sẵn để dành phần.

Thâu

Lê Bửu ...:

Ðờn hay vì có kẻ tri âm,
Dựa bệ không ai cũng tủi thầm.
Non nước đành xem theo bóng vẽ,
Mãnh đời mãn nguyện với ô tâm.

Thâu

Bùi Ðức ...:

Tâm thành con động chín từng Trời,
Chớ trách Thầy xưa chẳng để lời.
Khuất mặt mà lòng Thầy vốn ngự,
Thương tâm con thảo để gương đời.

Thầy sẽ trọng dụng. Thâu.

Ðặng Văn Ấc:

Ất niên con giữ nỗi tai ương,
Muốn tránh cho qua phải liệu đường.
Tu niệm làm lành hay cải số,
Tâm khá hiểu Ðạo phi thường.

Chẳng một đứa nào nên thân, Thầy sẽ dạy Lý Bạch tập các con Tín nữ.

Thượng sớ:

Phạm Thị Lánh:

Lánh đường trần tục đến non Tiên,
Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.

Thâu

Thầy thâu cả bên Nam hết; mấy con khá sợ Thái Bạch nghe, nhứt là Lịch và Bính nghe người hạch văn nghe. Thăng.

 


 

Q.2-024. Ngày 10-12-1926 (âl. 06-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Vendredi 10-12-1926 (06-11-Bính Dần)

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,

Ða tạ.... Ða tạ..... Cười.

Như Nhãn gan lớn thiệt, Thánh ý Thầy.

Thái Bạch - Hỉ Ðạo Hữu,

Tệ Ðệ tề quới: đòi Ðạo Hữu lên.

Thánh ý Thầy Lão chưa đem thố lộ, chẳng qua Thầy muốn để vậy mà xem sự hành Ðạo của chư Ðạo Hữu đó.

Thơ, Thánh Thất đòi lại đặng cùng chăng là tại nơi Thơ và vợ Thơ, Thầy và Lão đợi xem.

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu biết rằng Thánh Thất nầy chư Ðạo Hữu cũng có tổn phí, đợi kẻ gian manh làm thế nào mà đòi. Chư Ðạo Hữu thế nào mà trả, trước mặt luật Trời chưa phải dễ sang đoạt nghe à....

Lão sẽ điều đình, Thầy sẽ dạy Lão làm thế nào cho chúng nó biết oai linh Thầy.

Chỉnh Ðàn. Trung bạch Ngài dạy về sự đám táng của Tương?

Thây kệ kẻ vô dụng.

 


 

THẦY

Các con,

Thầy buồn lắm, các con cái biết nhơn sanh lắm chịu đau đớn khổ não, Thầy muốn làm thế nào giảm bớt cái kiếp đày các con, lại còn quyết đóng cửa luân hồi cho tuyệt lối sanh sanh tử tử, nhưng mà trong hàng Môn Ðệ có đứa phản Thầy. Các con ôi, nếu Thầy bỏ các con thì các con sẽ thế nào.

Thầy chẳng phải sợ chi cho Ðạo, ngặt lòng thương yêu Thầy nó làm cho Thầy đau đớn, thấy tên tuổi nhiều đứa yêu dấu Thầy đã bị treo tại cửa Phong Ðô đợi ngày hành xác. Thảm thay! Ðau đớn thay!... Ðại lụy!

Các con giữ mình cho lắm nghe.

Các con, chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.

Trung xin cho Cư đọc. Ðặng.... Lý Thái Bạch không chịu.

Nhuần, con nghe, con đợi Thầy dạy dỗ chồng con đạo đức chút đỉnh. Nó có tâm hiền mà ngặt Ðạo cũng chưa thông, chưa phải hồi lãnh mạng lịnh độ rỗi con cái Trung Huê của Thầy, con an lòng nghe.

Huỳnh Thị Sanh:

Sanh đời nắng lửa với mưa dầu,
Tội là đâu phước lại là đâu.
Chiu chít như chim cơn khuất bóng,
Mơi vui rồi tối chịu đeo sầu.

Thâu

Lâm Am Cung:

Trương cung chim đỡ thế nào đang,
Mất phước ôn nhu ấy mất nhàn.
Quyền biến dầu mình khi buổi ngặt,
Dằn lòng chớ tránh kế mưu gian.

Thâu

Sum vầy các sắc các con nhà,
Dầu phải sang hèn cũng một cha.
Nương dựa con tua vầy hiệp bạn,
Ðường đời cũng thế chẳng bao xa.

Thâu

Trung, nó là kẻ yêu Thầy, con khá dạy nó cách cầu nguyện để thờ phượng Thầy.

Xà inh con chớ ngại ngùng chi,
Các việc con xin ý đặng tùy.
Nền Ðạo của Thầy nền Ðạo cả,
Con con đừng sợ thị hòa phi.

Thâu

Thầy cũng dặn Trung như vậy.

Mi trừng nhãn kiến giữa không trung,
Choán khắp Càn Khôn đã thấu lòng.
Ðặng dạ nhơn sanh chưa phải dễ,
Ðạo mầu khởi lập xuất nơi Ðông.

Thâu

Nguyễn Văn Ðủ:

Ðủ mùi cay đắng chịu cùng đời,
Ðã thấy ra gì đó hỡi ngươi.
Lần lựa chưa xong Nhơn đạo giữ,
Mà nam đã chất thấu vênh Trời.

Thâu

Thuộc:

Thuộc lòng hai chữ ái nhơn xưa,
Phải đức trái oan trả nợ thừa.
Lữ Vọng bảy mươi còn sự nghiệp,
Huống ngươi ..... tuổi lợi danh chưa.

Thâu

Ní:

Ní na sớm xóm với chiều làng,
Ðã khởi oan mà chẳng phải oan.
Ngơ ngáo thế tình, ngơ ngáo phận,
Bao chừ Thầy hỏi đặng vinh sang.

Thâu

Tái cầu cho hai đứa nhỏ nghỉ.

 


 

THẦY

Các con thượng sớ.

Nguyễn Văn Cỏn:

Cỏn con sự nghiệp cũng bồng tang,
Lợi lộc tí ti cũng nhận nhàn.
Ðức tám tội mươi như Lão lộ,
Nhằm nơi phải chợ chẳng so hàng.

Thâu

Cho hay nhơn định chẳng qua Trời,
Non đảnh đưa xuồng gặp khó bơi.
Chi bẳng tùy theo Thiên ý định,
Cũng như buồm thuận gió đưa hơi.

Thâu

Hoài:

Hoài cố tư nhân tánh Ðạo tâm,
Nhơn nhơn dĩ định thánh Thiên tâm.
Tu thân bất viễn sanh môn nhập,
Thạnh khí cường chơn hạnh ngộ thần.

Võ Văn Chánh:

Chánh khí bất năng nạp chánh tà,
Nhơn sanh tại thế thị như ma.
Thiên môn hữu thỉnh vô nhân đáo,
Ðịa ngục vô ngôn hữu khách hòa.

Thâu

Ðiều:

Ðiều đình gia thất vẹn nhơn luân,
Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.
Trước muốn bước vào coi nhắm hướng,
Kẻo lầm đường rậm ngỡ ngàng chân.

Thâu

Bính:

Bính ngọc Tương Như mấy được dành,
Chưa ra giá đáng xót oai danh.
Buông cương đẩy núi xưa Hạng Võ,
Một kiếp chưa rồi hết lối tranh.

Thâu

Dần:

Dần dà những hẹn với căn tu,
Ðau mắt không lo để đợi mù.
Một bước qua ngày trăm bước trễ,
Một lời chẳng khéo mấy năm tù.

Thâu

Mười:

Mười voi chưa đủ gọi mình sang,
Huống ỷ khôn lanh cứ hiếp làng.
Tâm địa của Trời đời ắt biết,
Phải toan sợ tội cải tà gian.

Thâu

Khánh:

Khánh chuông tiếng khởi giục nhơn sanh,
Bỏ ác mà đi đến nẻo lành.
Kiếp phước phải ngừa lo kiếp phạt,
Hễ là có thưởng phạt theo mình.

Thâu

Triệu:

Triệu thành vị vọng phước tinh suy,
Phấn khí đắc tâm đắc thế thì.
Hậu vận vinh huê thiên lý mộng,
Bất như nhàn lạc tụng A Di.

Thâu

Ðoàn Văn ...:

Thảo căn mộc bổn thạnh tương cầu,
Ngự hám công khanh nhứt thế ưu.
Sanh tịch han tri căn số tác,
Hà do thế sự độ cao mưu.

Thâu

Ðặng:

Ðặng vàng mà bỏ kiếm đồng thau,
Sự nghiệp vì đây cũng để vào.
Trí não không cơn vui đạo đức,
Ðức không đủ đặng có nên giàu.

Thâu

Lê Văn Hát:

Hát lường chèo chống cũng đưa bơi,
Cầu Phật cầu Tiên cũng đợi mời.
Thiệt dạ Ta khuyên về ít bữa ,
Vái van thưa tội với Ông Trời.

Thâu

Sĩ tử nhà văn cũng tiếng rằng,
Chẳng gìn nết hạnh khách Nho văn,
Ðem câu nhơn nghĩa khoe ngoài miệng,
Xảo trá hung hăng ít kẻ bằng.

Thâu

Huỳnh Thị Hảo:

Hảo tai một gái nữ anh tài,
Mới biết mà tâm Ðạo quá hay.
Khá bắt chước nhuần lo độ chúng,
Dầu nên thành Phật cũng Bồng Lai.

Thâu

Huỳnh Thị Tức:

Tức y tức thực khỏi lo chi,
Tu tánh tu tâm khá kịp thì.
Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,
Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.

Thâu

Lê Thị Tùy:

Tùy duyên tùy phận đãi cùng đời,
Ðừng rán tranh giành phải mỏn hơi.
Nước vốn đầy sông tùy kẻ xách,
Lộc kia đầy đất tại người dời.

Thâu

Nguyễn Thị Lươm:

Lươm lo hai chữ phước nơi nhà,
Chẳng biết tu lại đến hỏi ta.
Mượn chước cầu nghe đôi việc muốn,
Rồi ra cũng giữ một lòng tà.

Thâu

Ngô Thị Hiền:

Hiền lương tánh đức vốn thiên nhiên,
Mảng tưởng chồng con phải chịu hiền.
Thầy dặn đừng lo điều quá trí,
Ðời Ðời Ðạo Ðạo mới là nên.

Thâu

Bùi Văn Nhầm:

Nhành vàng tuy chẳng đượm sân Ngô,
Cái miệng trung trinh giống Ðổng Hồ.
Chánh trực vô tư thiên hạ ghét,
Thường xem khách trọng giống chàng Tô.

Thâu

Nguyễn Văn Nở:

Nỡ đem chén ngọc đựng màu chàm,
Chẳng biết phận mình thế cuộc ham.
Thương kẻ dò đường không gặp tiếp,
Của không gìn trọn bụng hằng tham.

Thâu

Lượng trên đã mở đức nhiêu dung,
Tu tánh từ đây Ðạo khá tùng.
Trước dại sau thôi đừng dại nữa,
Kẻo không thoát khỏi cửa Diêm Cung.

Thâu

Nguyễn Thị ...:

Thấm duyên con trước giống nên hiền,
Phải kiếp trần gian phải kiếp Tiên.
Còn sống một ngày lo đạo đức,
Chi chi con khẩn toại như nguyền.

Thâu

Nguyễn Thị ...:

Tường đông bóng nguyệt xế đầu nhành,
Con đã kiêng dè sợ Ðấng sanh.
Mượn kiếp đào hoa răn kiếp trước,
Không tu Thầy dặn khó thi hành.

 


 

Q.2-025. Ngày 11-12-1926 (âl. 07-11-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy lễ an táng Chưởng Pháp Thượng Tương Thanh.

 

Samedi 11 Décembre 1926 (07-11-Bính Dần).

THẦY

Các con,

Diêu đợi nghe.

Trung, Lịch, hai con phải dụng Ðại Lễ mà an táng Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào "Tam Thập Lục Thiên" phải để nó đợi nơi "Ðông Ðại Bộ Châu" mà chờ Tòa Tam Giáo phát đạt. Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi. Nhưng Người giận Tương không công quả, dâng bộ công Thiên Thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cải chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến.

Các con nghe à.

Vậy trong Hịch Văn Sớ Tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.

Lịch bạch Thầy về sự Ðại Lễ.....

Không con... Ðại Lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe.

Trung, Lịch đứng tên.

Diêu, con chưa đặng định Thần khi Thầy giáng há! Những lời Thầy dạy con phải sắp đặt phần Nhơn đạo rồi sẽ lấy hồn xác con mà dùng về việc Ðạo, nghĩa là: Con phải tính cho xong phận sự làm người rồi lo hành Ðạo mà thôi. Con hiểu à.

Thầy còn dạy con nhiều nữa Diêu.

Trung, Lịch, lễ ấy phải khởi đầu giờ Tý nghe.

Thầy ban ơn cho các con.

 


 

Q.2-026. Ngày 13-12-1926 (âl. 09-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Lundi 13 Décembre 1926 (09-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Thiện Nam Tín Nữ,

Thánh Thất đã an, chư Hiền Hữu phải chỉnh nghi cho tinh tấn.

Thầy dạy Thượng Trung Nhựt Hiền Hữu lo sắp đặt cho ra nghi tiết. Thì sắp đặt sau lưng bàn Hộ Pháp, phải để một miếng nỉ dài một thước rưỡi, cao ba thước, thêu chữ bùa Lão vẽ đây (chữ Khí).

Làm một cái bàn thờ ba nấc, giữa cao hai bên bằng cho Thượng Phẩm và Thượng Sanh đứng.

Chư Ðạo Hữu chỉnh đàn cho Thầy ngự.

Ai chẳng y quan tử tế, xuất ngoại.

Nghe và tuân mạng.

La T. Hạp:

Hạp theo phong hóa giữ đường tu,
Nước cạn non mòn đạo đức như.
Gió nắng chưa hay ngày vắng dạng,
Muôn đời khoe một nết nên hư.

Thâu

Thị Trước:

Trước mai chẳng hiệp nghĩa thơ cưu,
Mấy kiếp vì chưa trả hết thù.
Vẹn Ðạo khá lo riêng chút phận,
Cái công nhắn khách gởi đường tu.

Thâu

Thị Biện:

Biện phân cho hiểu chút thân sau,
Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.
Thấy lối lành đưa qua mặt thế,
Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.

Thâu

Thị Nhờ:

Nhờ ai nay đặng nghiệp nhà an,
Mà lại cưu cưu muốn phụ phàng.
Dưa muối đã cùng nhau cực nhọc,
Phải nhìn lấy mặt buổi vinh sang.

Thâu

Thị Bính:

Bính niên canh hạn đã gần qua,
Hết buổi lưu linh tới có nhà.
Ðức hạnh một lòng lo trọn Ðạo,
Vì tu nên phận đặng nên bà.

Thâu

Thị Nhân:

Nhân duyên mấy lúc chẳng như nguyền,
Vì dạ con đương lúc đảo điên.
Phải nợ tiền khiên dầu khó nhọc,
Cũng lo trọn đạo vợ chồng hiền.

Thâu

Thị Nguyên:

Nguyên tình chớ khá để riêng lòng,
Muốn tát cho cùng nước biển Ðông.
Ðồng chí đồng tâm chồng với vợ,
Dầu toan cởi phụng đến đền Rồng.

Thâu

Thị Trà:

Trà mi khi đã dựa cung đài,
Căn cứ chi nên phải lạc loài.
Vì đức chẳng giồi lo chút Ðạo,
Mà ra rẻ rúng cái nhơn tài.

Thâu

Thị Xa:

Xa nơi hiền đức giữ căn xưa,
Cái tánh hung hăng biểu phải chừa.
Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,
Hình răn nào phải đợi người thưa.

Thâu

Thị Chi:

Chi nên an mạng gắng tùy thời,
Chẳng cánh buồm trương rán sức hơi.
Ðừng thấy sang hèn toan đổi dạ,
Nên hư khá nhớ tại nơi Trời.

Thâu

Quít:

Quít cam bồng bưởi vốn như lòng,
Ở thế thì lo một chút công.
Giành giựt cho xong mùi mặn lạt,
Chẳng vì chánh giáo của Thiên công.

Thâu

Tới:

Tới khi cù đủ gạt vi rồng,
Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.
Ðều đặn một lời cần đạo đức,
Ðừng lòng ỷ thế cũng như không.

Thâu

Miêng:

Miêng trường tánh đức giữ cho bền,
Gia nội phải hòa dưới với trên.
Chẳng khá tranh hơn rồi giận thiệt,
Trên đời nào có cách xa Tiên.

Thâu

Trồng:

Trồng cau mấy mặt biết lòng cau,
Phải nhớ rằng đời khó chuốt trau.
Nên Thánh nên Hiền chưa thấy mặt,
Gian hùng đầy quận với đầy trào.

Thâu

Bàng:

Bàn qua thế sự lắm buồn cười,
Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.
Trời Ðất chẳng cao và chẳng thấp,
Cũng như lỡ cổng với sào bơi.

Thâu

Phẩm:

Phẩm hàng cũng nhộn với người đời,
Tính đến chen vai với Ðạo chơi.
Thấy mặt Ta cho vào đứng đó,
Chừng mô thiệt dạ sẽ trao lời.

Thâu

Hải:

Hải hồ đưa bước đã cùng nơi,
Ngặt nỗi chưa hay biết mặt Trời.
Tội lỗi dẫy đầy chưa gỡ đặng,
Vào chi cho nhọc kẻ chào mời.

Thâu

Tương:

Tương giang mấy lúc gió đưa sầu,
Duyên ở đâu mà phận ở đâu?
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.

Thâu

Niên:

Niên cao chưa đủ trí phen đời,
Nương đỡ nhà tan ngó biển khơi.
Ý quyết non sông lo lập nghiệp,
Thương thay chưa buổi đặng nương thời.

Thâu

Dọn:

Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.

Thâu

Sửa:

Sửa sang cho vẹn đạo cang thường,
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
Ðưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.

Thâu

Két:

Két kêu chẳng sánh cú dời thân,
Mấy lúc con không biết kỉnh Thần.
Nạn gởi tai bay vì chẳng hiếu,
Từ đây sám hối tội hoàn lần.

Thâu

Chữ:

Chữ rằng Thiên Ðịa có tuần hườn,
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
Ðương buổi thành thì suy lại đến,
Suy rồi có lúc thạnh dồi hơn.

Thâu

Dần:

Dần dà những mảng cuộc đời lo,
Mà chẳng tu tâm lúc dặn dò.
Cha mẹ hiền lương duyên để sẵn,
Ðưa chơn đường Ðạo khá so đo.

Thâu

Kỳ:

Kỳ khôi bớt tánh thị khi người,
Người ấy là Trời đó hỡi ngươi.
Nếu đặng lòng người Trời chẳng thuận,
Hòa nhơn đâu khá để nên lời.

Thâu

Sáo:

Sáo sứa việc chi cũng thọc thò,
Chưa hay đặng nhỏ mới gầy to.
Nhỏ nên việc đặng chờ nên lớn,
Ðừng bỏ trôi qua tiếng dặn dò.

Thâu

Nâu:

Nâu sòng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền gan tu luyện mới là nên.

Thâu

Kỳ:

Kỳ ba độ chúng Ðạo hòa khai,
Phải đủ địa linh mới kiệt tài.
Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,
Trả lời như vậy bất kỳ ai.

Thâu

Xanh:

Xanh xanh nào có phụ người hiền,
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiên.
Lo hiệp nghĩa nhơn đồng loại giúp,
Ðừng ham quyền thế một mình riêng.

Thâu

Bước:

Bước giao đưa đẩy đạo nhơn luân,
Mà tánh hiền lương chẳng đặng thuần.
Ðã rõ kiếp tu là kiếp sống,
Phải lo sửa nết lại cho nhuần.

Thâu

Thà:

Thà theo nẻo chánh xách đèn giùm,
Thà lạy quỉ vương nói phách um.
Chưa rõ chánh tà Trời với quỉ,
Cũng như cơm nước gói nên đùm.

Thâu

Chim:

Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu hết cả chúng sanh thành.

Thâu

Ðô:

Ðô hội thay cửu nhị nguyên nhân,
Muôn kiếp chưa đem hiệp một lần.
Công cả các con là đáng nhứt,
Vì con Bồ Tát hết cư trần.

Thâu

Kiến:

Kiến cơ thì khá biết dùng cơ,
Tu luyện nay xem đã phải giờ.
Một đổi lao thân mà đắc Ðạo,
Thương giùm người kiếp trước bơ thờ.

Thâu

Lợi:

Lợi danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết gần Trời.

Thâu

Sách:

Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Ðường tu ví bẳng không lo trước,
Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.

Thâu

Cho:

Cho hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ai ngờ thấy phép linh.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Ðừng đừng xảo mị gọi tài tình.

Thâu

Ngọc:

Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,
Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Ðạo đức mãn đời vùng trở dữ,
Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm.

Thâu

Khanh:

Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn luân trọn Ðạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết trước đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.

Thâu

Keo:

Keo sơn chẳng nhớ một lời thề,
Sau trước chẳng dè để đến chê.
Tánh đức ôn nhu tua tập tánh,
Ngừa cơn xuân mãn kế qua hè.

Thâu

Tâm:

Tâm thành thì ắt đặng đời thành,
Danh chẳng cầu mà lại có danh.
Ðặng lúc vinh huê tua giữ phận,
Phòng ngừa kẻ nghịch xúm đua tranh.

Thâu

Ngăn:

Ngăn ngừa cái thói lả lơi tình,
Ðừng động tâm mình thấy sắc xinh.
Ðưa bước vào đường đời ngắn ngủi,
Can chi ràng buộc tội bên mình.

Thâu

Siêng:

Siêng lo thì ắt đặng no lòng,
Siêng Ðạo thì đời phải lập công.
Ðừng tưởng mờ hồ vô hỏi thử,
Phạt không thành tín bắt lên đồng.

Thâu

Thị:

Thị thành quen thú ít ưa quê,
Ăn mặn rồi ai cũng muốn chè.
Thế sự những ham sang với trọng,
Quên lo hồn phách chẳng nơi về.

Thâu

Văn:

Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,
Võ lực nửa đời võ phải tiêu.
Ðức hạnh lớn hơn quyền thế vậy,
Phải toan cho rạng đức đừng kiêu.

Thâu

Trung, con phải viết thơ cho vợ chồng em Thơ hay, nói rằng Thầy khen nó biết ăn năn, lo trọn Ðạo vậy mới đáng con cái Thầy.

 


 

Q.2-027. Ngày 15-12-1926 (âl. 11-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo (bằng Pháp ngữ).

 

Mercredi 15 Décembre 1926 (11-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Hữu,

Chỉnh đàn cho nghiêm đặng Thầy ngự.

Qu'on dire à ces Francaise, qu'ici est un maison de prières, qu'il ne jaut pas qu'ils la considèrent, comme une curiosité.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

(Marcel martin 135 rue Catinat Sàigòn)

Debout et lis. Toute chose vient à son huere.

Tu as vu et su ce que la plupart de tes compatriotres cherchent à voir et à savoir. Ce n'est que la conclusion des recherches spérites que j'enseigne cette nouvelle doctrine.

N'ai je pas prédit que le spéritisme est une religion d'avenir. Tu as naturellement l'intetion de créer en ce pays une relation morale des deux races Francaise et Annamite appeleés à vivre ensemble par ma volonté dans une communauté de vie et d'interêt.

Tu seras satisfait par une vie d'un homme de bien. Tes voeux seront éxauces. Tu seras plus tard un de mes fervents disciples pour prêcher au monde la paix et la concorde.

L'equipe Francaise seras bientôt ereé.

Tu seras forcé de revenir en France én 1928 pour soutenir cette doctrine au congrès universel.

Tu seras grand et puissant par ma volonté. Au revoir, c'est assez pour toi.

 


 

15 Décembre 1926. Tiếp theo: 11-11-Bính Dần.

Soạn:

Soạn sành trong trí lớp lang dò,
Coi thử người làm thế ấm no.
Có thất đức chăng thì biết lấy,
Hết cơn tính lợp tới khi mò.

Thâu

Về:

Về ai một cái nghiệp nhà tan,
Chẳng chịu làm ăn cứ điếm đàng.
Hai nẻo nên hư thì ắt một,
Hễ không nghèo khó chắc vinh sang.

Thâu

Sĩ:

Sĩ mê hoạn lộ sĩ lầm đàng,
Cái bóng dáng đời há phải quan.
Ðức hạnh chẳng như đời Hiền triết,
Chưa lo ích chúng tính thân nhàn.

Thâu

Út:

Út eo một phận chịu người chê,
Chẳng phải nên quan chẳng phải hề.
Trí hóa ở đời thôi trống lỏng,
Mà con lợi muốn với danh mê.

Thâu

Trọng:

Trọng thân con khá biết trọng người,
Cái giá trị mình phải có nơi.
Thường kỉnh lấy thân thì kỉnh kẻ,
Chẳng ưa nhiều khóc với nhiều cười.

Thâu

Trình:

Trình ra hai mặt thật hòa ngoan,
Khá nhớ lê quan với phép làng.
Trước mặt luật đời xem rõ thấy,
Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.

Thâu

Thông:

Thông minh tánh chất đặng ôn hòa,
Nhớ hiểu Phật Trời chẳng ở xa.
Ngó thử đầu hiên xem thấy dạng,
Hung hăng ác nghiệt kệ người ta.

Thâu

Lại:

Lại đây Ta hỏi hết lòng thờ,
Hay đến cầu xin hỏi bá vơ.
Thấy rõ lòng ngươi Ta phải đuổi,
Về lo sám hối kịp ngày giờ.

Lui.

Tri:

Tri cơ mầu nhiệm Ðạo không ngươi,
Ham rượu cho ngon miếng thịt tươi.
Nặng nhẹ mặt cân cơ Tạo kéo,
Bần công khóc khóc lại cười cười.

Ðiểu:

Ðiểu mai mấy lúc đẹp duyên hài,
Chít mát là vì bởi tại ai.
Một cảnh đôi quê thân chẳng thuận,
Làm cho sắc nọ phải xa tài.

Thâu

Hiếu:

Hiếu hạnh hườn sanh hiếu hạnh nhi,
Không lo cho vẹn Ðạo tương tùy.
Hắt hiu cứ tưởng trăng cùng gió,
Mà để cho ai đến lỡ thì.

Thâu

Phú:

Phú cho Tạo hóa định thân người,
Oan nghiệt cũng vì bởi tại ngươi.
Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,
Mới hay minh chánh cái quyền Trời.

Thâu

Cao:

Cao xanh nào có phụ chi con,
Mà chẳng giữ cho đức vẹn còn.
May mắn một thân đôi thế giúp,
Không thì có thuở phước nhà mòn.

Thâu

Hóa:

Hóa sanh muôn vật cảnh thiên nhiên,
Ước đặng giành nuôi lấy kẻ hiền.
Hay nỗi cơ cầu cân Tạo hóa,
Phải cho lũ quỉ thử Thần Tiên.

Thâu

Trượng:

Trượng tài khinh nghĩa đã bao phen,
Làm mất số sang chịu khó hèn.
Ví biết ăn năn đền tội trước,
Sửa răn sửa mạng Lão ban khen.

Thâu

Kế:

Kế cao âu rõ phép Trời cao,
May đặng đường Tiên cẳng bước vào.
Lợi mượn danh mua tua khá lánh,
Biết thân biết phận tính dường bao.

Thâu

Ðắc:

Ðắc công đắc quả bởi căn xưa,
Nết dữ từ đây gắng phải chừa.
Ðôi mép kéo kia dầu cắt đứt,
Thì là bên đẩy với bên đưa.

Thâu

Gồng:

Gồng gánh hai vai nặng nợ trần,
Có thân âu hẳn khổ cho thân.
Chưa lo buổi sớm lo nồi tối,
Cái kiếp oan khiên khá dứt lần.

Thâu

Nam:

Nam nhi phải gắng chí bền lòng,
Muôn sự dầu nên cậy chút công.
Bao thuở nằm nhà cơm tới miệng,
Của công thường thế phải cân đồng.

Thâu

Trình:

Trình môn đã muốn ít câu văn,
Chải chuốt mép môi cũng gọi rằng.
Trí thức ít ai đem thế phục,
Từ khi tuổi trẻ biết làm nhân.

Thâu

Ðạt:

Ðạt đầu công có gã Triệu Vân,
Tá Thục trong khi lớn sức Thần.
Chước thế thiếu văn vùa giúp võ,
Phàm thân chịu nhọc lúc Tam phân.

Thâu

Ngoạt:

Ngoạt nhựt chi qua khổ chẳng qua,
Phải cam thủ phận cải lòng tà.
Học vui với thú phong trần khách,
Ham mến thế gian ít kẻ hòa.

Thâu

Mười trăng có lẽ phận không yên,
Năm tới họa may hết lúc phiền.
Cầu biết kỉnh Tiên cùng lễ Phật,
Thì là mạng số đặng hoàn viên.

Nam Nữ Thầy thâu hết. Cần Giuộc hữu sự.

 


 

Q.2-028. Ngày 17-12-1926 (âl. 13-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo (bằng Pháp ngữ).

 

Vendredi 17 Décembre 1926 (13-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Môn Sanh,

Monsieur Dauplay est prité d'attendre la venue du Divin Maitre.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Dieu tout puissant qui vient sous la nom de Cao Dai pour enseigner la vérité en Annam.

Dauplay: Debout et lis.

Je tiens à ta dire que rien ne se creé et néxiste sur globe sans ma volonté. De pauvres esprits prétendent qu'ils sont dans le secret de Dieu. Or, je ne donne à nul humain ici. Bas d'en jaire la révélation. Pour venir à moi, il faut des prières. Je ne néglise pas à me manijestér quand ces prières sont sincères. Il suffit, pour vous convaincre que je suis bien Jéhovah des Hébreux le Dieu des armmés des israclites, le Dieu inconnu des Juifs et le vrai Père de Jésus Christ, de me prier par ce prête nom Cao Dai pour que vos voeux soient exaucés. Tu viens à moi avec un sentiment sincère pour bien jaire aux peuples soumis qui te sont confiés. Je te prie alors de propager cette doctrine à tous tés protégés. C'est la seul qui maintient l'humannité dans l'amour des créatures et vous apporte une paix durable.

Sibon:

Thành tín nhứt tâm cũng đáng khen,
Không sang tột bực cũng không hèn.
Nêu danh trí sĩ nhà quan nghiệp,
Có thuở ơn ban nghiệp sách đèn.

Thâu

Châu Thiết:

Nhà ân hậu bực tài danh,
Buồn lúc phong quang chẳng đắc thành.
Khanh tể nối đời khanh tể mãi,
Một điều khuyết Ðạo chẳng đua tranh.

Thâu

Dauplay:

Hoàng ngọc điệp của trâm anh,
Tập tánh ôn phu đã tánh thành.
Hiền đức nên trang ngôi điện các,
Phải ..... sửa vững lúc nghiêng thành.

Sô:

Sô sa ít chịu vải bô ưa,
Tùy thế công danh cũng đã thừa.
Lừa lọc trăm mưu nên nghiệp cả,
Bởi không dua nịnh chúng chê thừa.

Tiệp:

Tiệp theo thời thế tánh hiền lương,
Cứ giữ ôn nhu chịu thủ thường.
Nếu biết mình nên là bởi đức,
Dưới quyền trẻ dại khá nên thương.

May thay nên lúc thủ ngao đầu,
Ðạo đức của con ý vị sâu.
Có thuở mạng Trời đưa sắc đến,
Nên giềng Ðạo cả chẳng bao lâu.

Lâm Thị Ái Nữ, khá nói Ðạo cho em nghe con.

Danh Chúc:

Phật tâm ai hiểu cái người nầy,
Biết đặng cùng chăng chỉ một Thầy.
Ðừng sợ nghèo hèn lo đạo hạnh,
Của dư có kẻ đến dâng hoài.

Thượng.

Quyền:

Quyền con cũng lớn cửa nhà Thầy,
Những việc rầu buồn khá bỏ khuây.
Ðặng lớn thuyền rồi đừng tính chở,
Tự nhiên có kẻ đổ đông đầy.

Dự:

Dự vào đường Ðạo hạnh tua trau,
Ðừng đợi người kêu mới tỉnh màu.
Phương tục đã quen theo thục cách,
Ðến đền Tiên Phật dễ đâu nào.

Tâm:

Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên,
Ðạo đức khuyên con cứ giữ bền.
Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.

Trà:

Trà đình ai để nợ cho con,
Vì nghĩa mà thân phải mỏi mòn.
Ðừng trách Trời già không mắt thấy,
Dầu thay cơ Tạo cũng Thầy còn.

Dưỡng:

Dưỡng sinh đã vẹn nợ đôi bên,
Có thiếu thì con cũng trả liền.
Phủi sạch bụi hồng cho rảnh kiếp,
Thân còn chẳng kể, kể chi duyên.

Dậy:

Dậy đục lóng trong trách lũ chài,
Ðã an thân phận phá vì ai.
Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,
Nơi thế dường như khách lạc loài.

Thâu

Cật:

Cật vấn cho ra lẽ ức oan,
Thôi con bớt thảm lụy tuôn tràn.
Mắt Trời đã thấy cơn nhằn nhọc,
Bởi kiếp căn xưa phải chịu mang.

Thâu

Duyên:

Duyên đằng thuận gió đã êm thuyền,
Bốn biển năm hồ đã đậu yên.
Khá tưởng chút tình lo nỗi hiếu,
Trả xong nhơn nghĩa Phật tâm truyền.

Thâu

Tiếng:

Tiếng đức còn hơn lẽ tiếng tài,
Mấy trang hằng giữ một lòng hay.
Biết người biết mặt lòng đâu biết,
Ðừng cứ đeo đai nỗi sắc tài.

Thâu

Lục:

Lục xem các sách Thánh Hiền xưa,
Ðều đặn lành tu dữ ấy chừa.
Ðã lóng bên tai Tiên trước mặt,
Kim Tiên Huệ Mạng thấy hay chưa.

Thâu

Ðầy:

Ðầy túi còn lo kiếm chứa thêm,
Cái tham thế sự thấy thì thèm.
Ưa dằn đồng dưới trên năm bảy,
Ðể của phù vân đến cũ mèm.

Thâu

Quân:

Quân trung ai rõ nữ anh hùng,
Lập nghiệp cho người đến hưởng chung.
Ví bẳng kẻ sau noi đứa trước,
Thì đời phúc hậu nối không cùng.

Thâu

So:

So đời lại nghĩ thảm cho đời,
Nhỏ biết tu mà lớn biết chơi.
Trẻ dại đôi khi lo bực trí,
Nghĩ càng phát giận lại buồn cười.

Cả bên Nam đều thâu.

 


 

Q.2-029. Ngày 18-12-1926 (âl. 14-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo & Ðức Thái Bạch dạy về việc lập Tân Luật.

 

Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,

Ô trược lắm, ô trược lắm .....

Sinh Thanh, Hiền Hữu xuất ngoại kẻ ẩm tửu.

Chỉnh đàn lại cho tinh khiết đặng Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con, chư Nhu thượng sớ. Bình thân.

Tiền:

Tiền căn đã có sẵn công tu,
Biết đạo lý cao khá vận trù.
Kế thế xây thêm nền đạo đức,
Xen vào phẩm cũ khá cần cù.

Muôn:

Muôn năm ít kẻ để danh nêu,
Hết chí cứ lo có một điều.
Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,
Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.

Nguyễn Quốc Biểu:

Hiến sách cường tranh khổ tụ quần,
Ái ngôi hám vị thị phi quân.
Ðồng tâm hựu chí mưu mô hiệp,
Vô đạo nan tri sự bất phân.

Thâu

Thiên địa tối linh sanh Thánh chất,
Quân vương háo nghĩa tác Hiền thần.
Hữu công trì chí Thiên cơ toán,
Mạc nại lao lung trạch hảo nhân.

Thâu

Trần Phát Ðại:

Ðạo tâm phải biết đạo làm người,
Ðời đó là ngươi đó hỡi ngươi.
Niên kỷ chưa qua cơn hoạn đến,
Mà che miệng lén nhẫn cười đời.

Lui.

Võ Văn Sanh:

Sanh nhằm buổi khổ khá lo lường,
Biết phận mình hèn chúng mới thương.
Láo táo đừng không qua kẻ dại,
Phải khinh mình trước kẻ ngoài nhường.

Thâu

Vân:

Vân đài có thuở đặng nêu tên,
Nghèo khổ hiền lương giữ dạ bền.
Chưa phải thời lai con ẩn nhẫn,
Dầu sao làng xóm cũng ngồi trên.

Thâu

Phan Văn Vịnh:

Vịnh theo thời thế ở theo người,
Ðừng tưởng ở đời cứ việc chơi.
Mình ích chi cho nhơn loại đỡ,
Ðừng ngồi toại hưởng lộc nhà Trời.

Lui.

Nguyễn Văn Bời:

Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
Lo vợ lo con lo sự nghiệp,
Lo đâu lo đó Ðạo không màng.

Thâu

Trần Văn Vẽ:

Vẽ mày khéo đến hỏi xin tu,
Vợ chịu sao kham với vợ ngu.
Hỏi thử ăn chay thì ngán miệng,
Ðeo theo thịt rượu với bôn xu.

Lui.

Hạnh:

Hạnh đức làm gương dắt lũ sau,
Một nhà đạo đức khá thương nhau.
Ðã nên người trước đời trông cậy,
Gắng sửa nhà tranh hóa động đào.

Thâu. Sau Thầy trọng dụng.

Bùi Văn Kinh:

Kinh sách cha ông để lại đâu,
Mà con chữ viết chẳng nên câu.
Một nhà hiền đức ngày mòn mỏi,
Sao chẳng đường tu đến nẻo cầu.

Thâu

Trần Thị Mai:

Mai xưa trổ nhụy đã hai lần,
Tại ái nữ không biết giữ thân.
Có phẩm phải lo trân trọng phẩm,
Quyền xô thành ngã dễ bao lần.

Thâu

Huỳnh Xiếu Chuyên:

Chuyên gìn Tứ đức với Tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
Ðạo đức là nền làm phẩm cách,
Mượn nhành dương tịnh lửa sôi lòng.

Thâu

Bùi Thị Sùng:

Sùng tu nên nết ấy là danh,
Cái hạnh trau tria mới đặng thành.
Ðã hiểu lẽ hơn hơn lẽ thiệt,
Thì toan bỏ dữ bỏ cho đành.

Thâu

Xiếu Ngó:

Xiếu Ngó mà nên bởi có người,
Dắt dìu rồi lại dạy thông đời.
Lửa hương ví bẳng ngày sao đượm,
Phải nhớ công ơn của Ðất Trời.

Thâu

Trương Thị Nhờ:

Nhờ âm chất đủ mẹ cha xưa,
Nên hưởng giàu sang cũng đã thừa.
Biết Ðạo con tua gìn tánh đức,
Trong cơn nắng hạn khá là mưa.

Thâu

Khá phổ độ con cái Trung Huê của Thầy nghe.

Sĩ hổ con đừng thẹn với đời,
Thầy đây còn phải chịu mang lời.
Nên hư sang trọng nhờ căn trước,
Dầu phải chi chi cũng có Trời.

Thâu

Hổ thâu, khá phổ độ Nữ phái, Thầy sẽ trọng dụng.

Ðỗ Thị Du:

Du hành là kẻ bỏ đường tu,
Con sáng đừng nghe phỉnh lù mù.
Thiệt thiệt hư hư đời dễ thấu,
Có khi thấy mực gọi là chu.

Thâu

 


 

Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe dạy:

Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng: "Buổi lập Luật phải ngưng sự phổ độ lại đôi chút" lo cho xong Tân Luật thì mới truyền bá chơn Ðạo rõ lý hơn.

Vậy ngày Ðại Lễ Thánh Giáo Giáng Sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp luật cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong qua ngày kế thì Chư Thánh mặc Ðại phục vào điện bái rồi Hiền Hữu biểu sắp ghế vòng theo Ðại điện. Hiền Hữu và Ngọc Lịch Nguyệt lên tọa bửu vị, rồi theo chức phận Chư Thánh ngồi vòng hai bên như lúc Hiền Hữu còn tại Thượng Nghị Viện đặng cải luật đó vậy.

Hiền Hữu Chưởng Quản làm chủ Hội, mỗi vị Thánh đều đặng quyền cải lẽ nghe à....

Phải giữ phép kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ: Phái Thái trước, phái Ngọc giữa, phái Thượng chót.

Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp luật cho kịp một lượt với Thơ nghe à....

Thượng Kỳ Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu, như không tuân lịnh xuất ngoại.

Thầy cho làm lễ Cầu siêu cho cha Mục Thanh.

 


 

Q.2-030. Ngày 19-12-1926 (âl. 15-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo & Về sự chuyển kiếp của con người và của tà quái. Nếu không tu hành thì không khỏi luân hồi.

 

Dimanche 19 Décembre 1926 (Rằm tháng 11 Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Chúng Sanh,

Phân ban. Ngọc Lịch Nguyệt, Lão khen Hiền Hữu hành lễ.

Chỉnh đàn Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Thơ xin in 2000 Thánh ngôn, 4000 thi văn.

Thầy khen con. Ðặng.

Hương Thanh xin dịch bộ Tam Thiên Thế Giái.

Kinh điển dịch đặng bộ nào hữu ích bộ nấy. Thầy cho con song phải đem đến Chưởng Pháp cầu lịnh nghe con.

Thơ xin dịch Minh Thánh Kinh.

Cũng phải đem nạp cho Chưởng Pháp phê chuẩn.

Tín Nữ cầu Ðạo:

Nguyễn Thị Yến:

Yến anh phải lỡ lứa khi xưa,
Vì chẳng tu tâm tội cũ chừa.
Nếu trẻ biết lo trau tánh đức,
Vào đường tu niệm khá răn chừa.

Thâu

Nguyễn Thị Sa:

Sa vào đường tội khó nên hiền,
Cải ác xưa từng chiếm bực Tiên.
Hối hận trăm năm trong một buổi,
Thành tâm Thầy cũng nạp lời nguyền.

Thâu

Châu Thị Huê:

Huê đào từ trở sắc tươi cười,
Chẳng giữ gìn duyên kẻ một nơi.
Thương chẳng ai cầu thương hóa ghét,
Lời hay chẳng nạp, chẳng nên lời.

Thâu

Lê Thị Ngần:

Ngần ngại từ đây hết hỏi đon,
Thân mình dầu tuyệt Ðạo không mòn.
Phải duyên kêu khách ngoài ngàn dặm,
Lỡ hội đừng mong buổi cúi lòn.

Thâu

Ðiểm:

Ðiểm viên một khắc hết hồi mơ,
Tưởng tượng chi chi tánh dật dờ.
Nửa chiếu không rồi thân phận tục,
Ðường Tiên ngần ngại bước bơ thờ.

Thâu

Vẹo:

Vẹo trăm nết hạnh kiếp thơ đào,
Ðừng để thường tình chịu sóng xao.
Lỡ lối tang thương thôi phải phận,
Cũng căn cũng kiếp buổi xưa sau.

Thâu

Phạm Thị Ðiều:

Ðiều đình để bước nguyệt canh thâu,
Nét bóng phù du đã đủ màu.
Lừa lọc nỗi thân cùng nỗi nợ,
Tưởng tình âu yếm dạ thêm đau.

Thâu

Hà Thị Nho:

Nho nhã con tua tập tánh thành,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.

Thâu

Trần Thị Rạng:

Rạng mình một kẻ biết khôn đời,
Ta hỏi cùng ngươi quả thiệt lời.
Tánh dữ không trừ Trời với Phật,
Than mình nhiều lúc hổn đưa hời.

Thâu

Phan Thị Thôi:

Thôi đừng đeo đắng cái tình đời,
Biết tuổi mình xưa khá lánh nơi.
Mưa thảm nắng sầu dày dẽ phận,
Toan đường đạo đức đến cùng Trời.

Thâu

Trần Thị ...:

Gương lành trẻ khá giữ mình hoài,
Làm khách Tiên phong biết Thiên Thai.
Lợi hám danh ưa tua lánh chốn,
So đo sang trọng với Bồng Lai.

Thâu

Lịch, con phải kêu những chư Nhu còn lại hầu bên Nữ phái. Bính xin in kinh tạm và Thánh Tượng chữ "Bài vị". Ðặng con. Thầy dạy Ðạo.

 


 

Tái Cầu:

Dimanche 19 Décembre 1926 (Rằm tháng 11 năm Bính Dần).

 

Thầy cho chư Môn Ðệ miễn lễ. Bài ban.... Các con nghe.

Một sự các con chưa hề biết đến đặng hiểu Ðạo là quí trọng dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.

Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não cũng tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi các con chết, rồi các con ra thế nào? Các con đi đâu?

Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy.

Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi, từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Nhơn phẩm nơi thế gian nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bực Ðế Vương nơi trái địa cầu nầy chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẵng cấp dường ấy. Cái quý trọng mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Ðệ nhứt cầu, Tam Thiên Thế Giái. Qua khỏi Tam Thiên Thế Giái thì mới đến Tứ Ðại Bộ Châu, qua Tứ Ðại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên, vào Tam Thập Lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng đến Bạch Ngọc Kinh là nơi đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.

Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con có nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị. Còn phẩm trật Quỉ vị cũng như thế ấy, nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành Quỉ vị, cũng đủ các ngôi các phẩm đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các con.

Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó. Thầy đã thường nói: Hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý, luật công bình thiêng liêng buộc phải vậy, Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Thầy đã chỉ rõ hai nẻo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi khỏi lầm lạc.... Các con hiểu rằng trong Tam Thiên Thế Giái còn có quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là Thất Thập Nhị Ðịa nầy sao không có cho đặng.

Hại thay, lũ quỉ lại là phần nhiều nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc mà dỗ dành các con. Vì vậy Thầy đã nói tiên tri rằng: Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng xúi biểu nó cắn xé các con, song trước Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Ấy vậy đạo đức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị, lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không Ðạo thì là tôi tớ quỉ mị. Thầy đã nói: Ðạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắt cho các con leo tới phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn Thầy nữa.

Vậy Thầy lại dặn các con, nếu kẻ không tu làm đủ phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào mới hội hiệp cùng Thầy. Nên Thầy cho một quyền rộng rải cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giái nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng. Mà hại thay, mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy. Vậy Thầy dặn: Ðạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.

Cả chư Thiện Nam hầu Ðàn ngày nay Thầy lấy lòng từ bi mà thâu hết.

 


 

Q.2-031. Ngày 20-12-1926 (âl. 16-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Lundi 20 Décembre 1926 (16-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Thơ Thanh Hiền Hữu, Thánh ngôn in ra chỉ để phát cho trong mỗi Thánh Thất và Chức Sắc Thiên Phong giáo Ðạo mà thôi.

Hiền Hữu lo lập Luật, còn Thượng Trung Nhựt?

Chỉnh đàn, Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con, đáng kiếp cho mấy con nghé, phải có hình phạt như vậy các con mới biết sợ, chớ dỗ dành ngon ngọt các con không sợ, còn Thái Bạch hăm trừng thì các con đều kinh khủng.... Khi Thầy và Thái Bạch khác nhau xa lắm con há?

Nhiều đứa sẽ còn bị Thái Bạch nữa, mấy đứa nhỏ rán giữ hạnh không thì bị xuất ngoại mà chớ....

Chư Nhu cầu Ðạo....

Nỉ đỏ chỉ vàng con.

Trung Nhựt vì đó phải bị phạt, chẳng một điều các con tuân theo Thánh ý. Thầy biểu điều gì các con cũng làm nghịch. Vậy thì Ðạo mới thế nào. Con phải nói lại với nó khi nó đến, phải cầu cơ cho Thái Bạch dạy dỗ nghe à. Thượng sớ.

Nguyễn Văn Lạc:

Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,
Nghĩa mặn tình nồng chớ dễ khinh.
Nửa mái tóc tơ còn buộc trói,
Ðem mình toan gởi cửa anh linh.

Thâu

Lương Văn Hòa:

Hòa vinh hòa khổ cũng chung nhau,
Ai xúi đem lê đến đổi đào.
Nương cảnh cũ nép cây đợi thỏ,
Ngọn nguồn ai rõ nỗi âm hao.

Thâu

Nguyễn Văn Ngãi:

Ngãi nhân cam phận chịu bần hàn,
Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.
Mấy ngón tri âm thưa thớt bạn,
Mà trong ngựa bạc cửa sơn vàng.

Thâu

Trần Văn Khuyên:

Khuyên về để chữ lại thơ đình,
Chừng đến ngựa mời đặng hiển vinh.
Ðào quế sum suê xuân vẽ sắc,
Hết cơn phàm tục bước Thiên đình.

Thâu

Lê Văn Ðiều:

Ðiều hay lẽ phải khá gìn lời,
Một điểm đức dồi một vẻ tươi.
Con cái muốn nên đường hiếu hạnh,
Con tua trước biết sợ oai Trời.

Thâu

Trần Văn ...:

Sáng đèn cánh bướm phải tiêu tàn,
Phải biết gần quan mới hiểu quan.
Thinh thế mượn con tua trả lại,
Thủ chơn danh noi Ðạo tìm đàng.

Thâu

Nguyễn Văn ...:

Thảo chi sang lượm với danh mua,
Chẳng hiểu chánh tâm cứ nói đùa.
Ðứa nịnh năng gần người chánh lánh,
Phải ngươi sanh dưới phép nhà vua.

Lui.

La Văn ...:

Lựa nên một giống máu anh hùng,
Chẳng phải phen người đủ lược thao.
Chính giữa ba quân không lãng trí,
Việc nhà lại chịu nỗi tầm phào.

Thâu

Trần Văn ...:

Thình lòng ẩn nhẫn đợi đôi năm,
Con khá từ đây biết kiệm cần.
Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,
Ðủ no không thiếu bởi nên cần.

Thâu

Ðá:

Ðá thử vàng kia rõ tuổi cao,
Phải nên danh cả chớ tự cao.
Ðường quan lắm nỗi điều gay trở,
Chước lánh nhàn tìm mới chí cao.

Thâu

Mùi:

Mùi chua ngọt bả sang hèn,
Ðời chác một điều dụ tiếng khen.
Trăm tuổi áo là còn gắng điếu,
Công trình cửa phạm chả hề quen.

Thâu

Võ Bá ...:

Nhạc hay một giọng phải đồng hòa,
Muốn mạnh có người với có ta.
Ðừng ỷ mình hay toan gánh vác,
Xưa nay tiếng xóm chả không nhà.

Thâu

Cẩn:

Cẩn ngôn cẩn hạnh khá gìn hoài,
Ðừng phụ ai cũng chẳng khinh ai.
Ðóng cửa dạy nhà nên đạo nghĩa,
Chẳng vui phong tặng cũng vui tài.

Thâu

Trị:

Trị đời con thử nghĩ cho đời,
Ác trọng mình làm cũng gọi khinh.
Kẻ mất lưỡi cày hô mất cán,
Thành ngôn là biết chánh ngôn thình.

Thâu

Chác:

Chác điều buồn thảm dẫy đầy lòng,
Hết kiếp phận mình cứ long đong.
Dựa cột cột xiêu nhà sập nóc,
Kham tai cái kiếp cửa nhà không?

Thâu

Cả Nữ phái thảy đều thâu.

 


 

Q.2-032. Ngày 21-12-1926 (âl. 17-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Mardi 21 Décembre 1926 (17-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe Lão dặn phạt há. Nếu chẳng vậy thì quyền Lão để trị ai. Không một điều nào Thầy dặn Hiền Hữu tuân y theo. Thử đọc Thánh ngôn lại thì là cử chỉ Hiền Hữu sái hết.

Hiền Hữu không tuân mạng lịnh Thầy, ai tuân?

Hiền Hữu lỗi trước sau trị ai? Phải làm gương cho em út thì mới phải là anh Cả.

Cái quyền mình nó cũng phải đồng với hình phạt mình, biết lỗi mình mới đặng trị lỗi người... nghe à. Nội đêm nay phải quì hương.

Chỉnh đàn nghiêm trang đặng Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Thiện Nam, Tín Nữ,

Trung, cho các Thiện Nam Tín Nữ ngoài vào, dặn chúng nó làm thinh thủ lễ nghe. Thượng sớ.

Hoài, con xét xem Ðàn cho nghiêm nhặt nghe.

Nguyễn Thị ...:

Hậu nhựt công khanh để nối đời,
Thảnh thơi non hứng gió thanh chơi.
Ðua đường Nhơn đạo coi mòn sức,
Công quả đường tu đã phải thời.

Thâu

Cao Thị ...:

Nho phong một cửa để khuyên người,
Tháng lụn ngày qua đã bỏ trôi.
Sự nghiệp cha xưa không gắng giữ,
Hỡi đâu là hiếu khá đền bồi.

Thâu

Nguyễn Thị ...:

Huệ trí phải lo dưỡng tánh chơn,
Ðừng lo âm ấp thiệt cùng hơn.
Khuyên lòng khá niệm vài câu kệ,
Bể Thánh nghiêng tai lóng tiếng đờn.

Thâu

Huỳnh Thị ...:

Ðào hoa mang mặt chịu đông trêu,
Của cải thế gian có một điều.
Chuộc tội mua oan đưa kiếp đọa,
Thành thân khá nhớ lợi danh thiêu.

Thâu

Khưu Thị ...:

Viện trong đảnh túc của son pha,
Một cảnh sao nay chí một nhà.
Ít đức trách Trời chưa phải lẽ,
Tại mình oan nghiệt trổ sanh ra.

Thâu

Trần Thị Mài:

Mày dày mặt dạn đến dòm Trời,
Thiệt quá sức rồi chớ phải chơi.
Ta dặn về nhà lo cúng tế,
Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.

Thượng.

Trần Thị ...:

Cận hiền như ở lộn chi lan,
Chọn lựa người ngay kết nghĩa vàng.
Miệng ngọt lòng chua ai dễ thấu,
Chen vào tội chướng mất an nhàn.

Thâu

Nguyễn Văn ...:

Ðầy đủ đừng toan để đến tràn,
Công trình gầy dựng nghiệp nhà an.
Chia lo đã lắm công chồng đỡ,
Mái tóc nhớ nay nửa trở vàng.

Thâu

Phạm Thị ...:

Tảo tần con khá gắng chung lo,
Ðẹp thiếp mới ra nở mặt trò.
Hai gánh chia đồng khi nhẹ bớt,
Coi theo thiên hạ học nên trò.

Thâu

Huỳnh Thị Kẻ:

Kẻ câu chót núi tính nên gì?
Chưa đứng mà toan muốn tính đi.
Của cải đầy đồng không biết hết,
Cứ ngồi xó ró kiếm phân bì.

Thâu

Ðặng Thị Xược:

Xược lên cho khỏi đảnh non cao,
Rồi trở xuống lo nỗi té nhào.
Danh lợi đừng rằng đời nễ mặt,
Mình còn lắm kẻ đội trên đầu.

Thâu

Võ Thị Cận, Nguyễn Thị Huệ:

Huệ lan chung đứng mái Tây hiên,
Biết phải cùng nhau dữ hóa hiền.
Kẻ đố người làm đôi đứa hại,
Trăm điều nhẫn nhịn mới là Tiên.

Thâu

Ðoàn Thị ...:

Ðịnh chi trước phải đủ ba lo,
Ðừng tính như đui bước phải dò.
Một tới ba lui hơi ngất ngưỡng,
Nên chi cho đặng nghiệp nhà to.

Thâu

Lê Thị Ðèo:

Ðèo bồng lắm kẻ xúi con hư,
Hễ biết nên hư khá khử trừ.
Nhẫng giận nhẫng than thêm nỗi khóc,
Biết bao gặp mặt kẻ sanh thơ.

Thâu

Trần Thị Ới:

Ới hợi mình nay tuổi đã già,
Chết đây ắt sẽ trở ra ma.
Nghe Trời đến dạy điều đạo đức,
Tới học may khi gỡ tánh tà.

Thâu

Nguyễn Thị Xuyên:

Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,
Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.
Dựa cửa rán xem ngoài thế giái,
Nên danh nào phải ngủ nằm dài.

Thâu

Xích:

Xích Bích thắng Tào cậy gió Ðông,
Nhà cao nghiệp lớn bởi khuôn hồng.
Phàm thân chưa vỗ tay nên sấm,
Thiên lực hòa nhơn khá giữ phòng.

Thâu

Chánh:

Chánh tâm thân mới vẹn đường tu,
Phải sánh đời này tỉ hữu ngu.
Thanh tịnh thân vào thanh tịnh điện,
Chẳng quen đỉnh núi thấy cao mù.

Thâu

 


 

Q.2-033. Ngày 22-12-1926 (âl. 18-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Mercredi 22 Décembre 1926 (18-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu viết thơ cho mấy Thánh Thất lục tỉnh nói: Thượng Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn Ðệ, chẳng còn quyền hành truyền Ðạo nữa.

Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt: Tả Ðạo Bàn Môn thì chịu nghe à. Ðã lập Pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên Ðiều tránh sao cho khỏi tội.

Hộ Pháp, Hiền Hữu khá an lòng. Chỉnh Ðàn cho Thầy ngự.

 


 

Tái Cầu:

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con Nam phái cầu Ðạo thượng sớ.

Trung, có lắm đứa chí quyết đến xin hỏi gia đạo và thử thánh Thầy. Con khuyên chúng đừng vọng động tà tâm lắm vậy mà phải bị tội với Thiên Ðình.... nghe.

 


 

Tái Cầu:

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Nam phái thượng sớ: Kẻ ở xa trước, Thầy miễn lễ.

Nguyễn Văn Kỳ:

Kỳ ba Ðại Ðạo mở đưa lời,
Lánh tục đem thân đến cảnh Trời.
Vở lối đường xưa ngăn đón khách,
Thương sanh dạy lẫn Ðạo đưa lời.

Thâu

Yos (Ðàn Thổ):

Vô hành bất thức Ðạo dương khai,
Hữu dụ nhơn sanh khá cảm hoài.
Chánh lý hằng tâm tu tín thiện,
Thân vô nhựt hỷ nhiểm trần ai.

Thâu

Khách Trú (Soài Riêng):

Tông môn hậu nhựt đoạt vinh hoa,
Khả trạch quả nhân tánh thuận hòa.
Hữu đạo tự nhiên tâm khoái lạc,
Chí công khả độ khách Trung Hoa.

Khá dịch bài thi đưa cho Thổ nhơn xem nghe. Bính viết chữ Nho đưa cho nó.

Ngọc:

Ngọc không trau chuốt khó nên hình,
Người chẳng kiên tâm trọng hóa khinh.
Thánh đức chưa ai sanh đủ sẵn,
Ðừng xa chánh Ðạo mất oai linh.

Thâu

Vi:

Vi bằng nào rõ chánh ra ngoài,
Hơn phép cao xanh thiệt rất hay.
Trong thế còn người mong thoát tội,
Kỳ trung chưa lọt kẻ ra ngoài.

Lui.

Thêu:

Thêu phụng nên xinh chỉ nhuộm màu,
Mình không đạo hạnh mới ra sao.
Như người trần lổ đi đầu chợ,
Như kẻ mang gông muốn nhảy rào.

Lui.

 


 

Q.2-034. Ngày 23-12-1926 (âl. 19-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Jeudi 23 Décembre 1926 (19-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Quới, xuất ngoại, chừng khăn áo trang hoàng sẽ vào chầu.

Thánh Thất nhỏ há, Hiền Hữu Thượng Trung Nhựt đáng lẽ Ðại điện nới vào trong mới phải. Hiền Hữu sai kẻ làm song ly bao vòng nới ra cho tới tượng Phật Tổ làm bái đình nghe.... Cười....

Trung bạch về sự Như Nhãn đương đau nghe phụ nữ cản trở và đòi Thánh Thất. Nó chẳng ăn năn thì phải chết mà chớ. Chỉnh đàn Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con ....

Trung, con cho một sắc dân rất yêu dấu của Thầy là người Thổ vào hầu nội, mời Tông.

Tông: Phải giải nghĩa cho chúng nó nghe con.

Chơn thần cửu biến giáo nhơn gian,
Tịnh giả tâm thanh đắc lạc nhàn.
Nhứt kiếp Như Lai kinh Phật Tổ,
Nhị căn Lão Tử phẩm Tiên ban.
Tam ngươn chuyển thế truyền Chơn Ðạo,
Khảo tánh tùng hoan độ khách phàm.
Luyến ái hậu tình khuynh thủ đảo,
Thâu hồi chủng tử thoát hồng trần.

Vui, cười Trung. Thầy toàn thâu.

 


 

Q.2-035. Ngày 24-12-1926 (âl. 20-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy lập Tân Luật.

 

Vendredi 24 Décembre 1926 (20-10-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Ðại hỉ, đại hỉ. Lão mừng cho chư Ðạo Hữu. Chỉnh đàn Thầy ngự. Trung, Hiền Hữu nhớ mời hội từ 6 giờ mơi chí 11 giờ nghỉ; từ 2 giờ tới 6 giờ nghỉ. Tối từ 8 giờ tới 11 giờ nghỉ.

Như chưa hoàn toàn ngày mai cũng phải vậy. Thầy dặn phải tuân y theo lời. Luật lệ truyền lâu dài, chư Ðạo Hữu phải rán cẩn thận nghe à.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Thầy mầng các con.

Các con ôi, nếu nói rằng Thầy đã chịu cực nhọc từ ngày Khai Ðạo đến chừ, Ðạo đặng phổ thông mau chóng dường nầy, thì đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới phải, sao Thầy lại buồn?

Các con ôi, các con đã chịu lắm khổ não nơi biển trần nầy, từ mười ngàn năm rồi đã ở dưới quyền tà quái áp chế, vì vậy mà Thầy phải phế Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con. Chớ chi Thầy đến mà làm giảm bớt sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào lại còn lập "Tân Luật" ràng buộc các con thêm nữa, vì cớ mà Thầy buồn.

Thầy tỏ thật, cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức, Thiên phong, Phật sắc của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật lệ thì là trái phép, mà trái phép thì làm thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng.

Vậy các con gắng làm phận sự cho hoàn toàn rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa luật.

Chư Nhu thượng sớ.

Nguyễn Văn Công:

Công trình tay trắng lập nên nhà,
Chẳng kể quyền quan vụ nết tà.
Thương kẻ lao lung nhiều ít giúp,
Còn thân khá gỡ gánh oan gia.

Thâu

Dương Văn Thọ:

Dị cảnh tâm đồng khách biệt hương,
Châu qui Hớn phục mộng trinh tường.
Quả căn dục hối tiền khiên kiếp,
Mạt vọng lợi danh đoạt thế cường.

Thâu

Dư Tăng:

Tăng môn xuất Thánh thế nan tri,
Lộc biến bất lao thị văn trì.
Tâm nội bất hồi hương vọng quốc,
Ðiểu hồ ký thử hậu cao phi.

Thầy vui gặp các con ... Cười....

Trung, con phải tính với Tông dịch Thánh ngôn ra tiếng Thổ... nghe à.

 


 

Q.2-036. Ngày 25-12-1926 (âl. 21-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy về việc lập Tân Luật, phong chức Giáo Sư cho ông Latapie (Thượng Latapie Thanh) và thâu Môn Ðệ.

 

Samedi 25 Décembre 1926 (21-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Frère Latapie. Je vous nomme Evêque d'epuipe Francaise c'est au rang des Giáo Sư que vous êtes placé. Vous diréz aux Francaise que le Maitre ne vient pas aujourd'hui. J'ai à régler quelques organisation intérieures du sacerdoce. J'aurais du recourir à vos aides, si votre équipe était formeé.

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu khai hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân Luật nếu Thầy để cho Lão nội trong hai giờ hoàn thành tất cả. Ngặt một điều là nếu Lão lập luật, chẳng một ai trong hàng Ðạo Hữu hành Ðạo đặng. Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Ðạo Hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền diệu làm ra Thiên Luật, ấy là một hạnh công bình đó.

Vậy Lão giao ba bộ Luật hiệp một cho Thái Thơ Thanh trước, nội trong một tuần lễ phải hiệp thế nào cho ba bộ phải chung vô làm một; qua tuần nữa tới Thượng Tương Thanh; kế một tuần nữa tới Ngọc Trang Thanh, nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập thế nào cho rồi luật lệ, đem về Thánh Thất đặng cải lại nữa.... chư Thiên Phong.

 

Tái Cầu: Vous méritez bien cette récompence. Chez frère Latapie. Vous frère connaitre à tous vos compatristes le pardon de Dieu.

Sauvez les de tous pêches antérieurs qui les amènent à la perdition.

Toàn thâu chư Chúng Sanh; nghe dạy. Thây kệ đứa ngu.

 


 

Q.2-37. Ngày 26-12-1926 (âl. 22-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Dimanche 26 Décembre 1926 (22-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Trung, Hiền Hữu nhớ viết thơ cho chư Thánh ngày cải luật phải đủ mặt, bằng ai chẳng tuân mạng Lão trục xuất nghe à.... Chỉnh đàn Thầy ngự.

Trung bạch về sự lập thệ cno Minh Tân....

Ngày nào lập luật xong mới đặng. Thăng.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Chúng Sanh,

... Con rán phạm giái cấm với ăn bậy bạ cho thường con nghe. Thầy duy có một thế là mỗi phen để cho các con chịu hình phạt, như vậy họa may dạy các con mới đặng mà thôi.

Phải ăn cháo thương hàn, trùm cho ra mồ hôi thì hết.

Chư Nhu thượng sớ.

Vĩnh:

Vĩnh viễn chi chi cái cuộc đời,
Mà lo gánh vác đã mòn hơi.
Chưa xong nồi gạo sanh ba kiếp,
Mua thảm chác hờn lắm hỗi ôi.

Thâu

Viện:

Viện cũ tòa xưa đã đổi dời,
Phải thương lấy phận mới nên nơi.
Mua Tần bán Sở đôi hồi nghiệp,
Ðể bước đường tu khá nhớ lời.

Thâu

Bút:

Bút văn chương để phỉnh người hèn,
Nếu Lão công bình chẳng dám khen.
Cái chí chơn thành chưa thấy mặt,
Ðồng tâm múa miệng đã nhiều phen.

Lui.

Tỉnh:

Tỉnh giấc đường quan ngán ngẩm duyên,
Ðôi bên phận nghĩa khó như nguyền.
Lửa hương đã lắm điều cay đắng,
Trách chút tài ba nhẫn chứa phiền.

Thâu

Ngỡi:

Ngỡi nhân mãn tính vẹn đôi đường,
Ngặt nỗi không tài bộ bẳng dương.
Thành tín khen lòng trung nghĩa đủ,
Thánh tâm âu cũng lúc nên dường.

Thâu

Toàn thâu: 91 Thiện Nam, 41 Tín Nữ. Vương Thành Tông, Hương Cả làng Ba Vệt, S. R.

 


 

Q.2-038. Ngày 27-12-1926 (âl. 23-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "... Thầy đến chỉ độ kẻ vô Ðạo, chớ không phải sửa Ðạo."

 

Lundi 27 Décembre 1926 (23-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Thượng Trung Nhựt, Ðạo Hữu khá khuyên những kẻ đến đây chẳng lòng thật tình kỉnh lạy Chí Tôn nên xuất ngoại nghe. Chỉnh đàn Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Trung, con nên cho cả Môn Ðệ yêu dấu Thầy hầu nội hết.... Cười... Không cần nói chúng con cũng hiểu, Thầy rất vui mừng. Vậy Thầy dặn con, mỗi khi chúng nó đến phải tiếp rước trọng hậu nghe à.

Chư Nhu thượng sớ.

Bốn ông Lục và chín người Ðàn Thổ - Thâu hết.

Kỳ,... xin đi cúng nơi các nhà đặng khai đàn cho chư Ðạo Hữu trong các làng hạt Tây Ninh.

Ấy là phận sự nó.

Trung xin về.... Chánh phủ - Phải.

Lịch xin cúng cơm cho ông Lão.

Ðặng.... Cười. Nếu Thầy định thì Thầy sẽ dạy con đừng cúng kiến chi hết vì chơn nhơn chẳng còn hưởng của phàm bao giờ. Con làm tiệc đãi chớ chẳng nên gọi cúng.

Ðại:

Ðại bi chẳng quản một phần riêng,
Thấp thỏi phàm tâm chác dạ phiền.
Ðại độ khá lo giồi tánh đức,
Quảng tâm mới hạp đức Thiêng liêng.

Thâu

Hạp:

Hiệp chung mấy Ðạo lại nên giềng,
Tỏ rõ nên quyền Ðấng quản Thiên.
Dưới mắt rõ ràng trăm phép lạ,
Nào ai chối đặng một Thiên quyền.

Thâu

Cẩm:

Cẩm tú giang san một gánh nâng,
Ðường xưa nẻo cũ đã quen chừng.
Dưới Trời chưa rõ nền chơn thật,
Hư thiệt xem qua giống đám rừng.

Lui.

Tị:

Tị hiềm chi những tiếng gièm pha,
Ngó vách chưa hay đã khỏi nhà.
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.

Thâu

Thiệt:

Thiệt thiệt hư hư thế lộn hoài,
Từ xưa lầm lạc dễ ai hay.
Trên không biết dưới đâu nên phía,
Trái địa cầu xây cứ vậy hoài.

Thâu

Cang:

Cang trực lòng trong cũng đáng khen,
Tuy vân nghèo khó đức không hèn.
Hơn thua trối mặc đời bao biếm,
Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

Thâu

Sửa:

Sửa mình khá giữ Ðạo cho tròn,
Ðức hạnh làm gương sửa cháu con.
Mượn phép thiên nhiên làm phép tục,
Từ nhiên giòng họ hết hao mòn.

Thâu

Thao:

Thao lược từ xưa đã mấy nhà,
Ðời qua tên tuổi cũng đều qua.
Nền nhân ví bẳng nêu danh thế,
Thánh đức đem so mới thế nào.

Thâu

Thông:

Thông tri thời thế xét soi mình,
Biết tội mà chừa phải trọng khinh.
Hai lẽ một đàng tà với chánh,
Bên thì làm dữ phía làm lành.

Thâu

Ðâu:

Ðâu hay trần thế Phật Trời vào,
Lập Ðạo dắt dìu phép luật trao.
Cửa Phạm dầu xưa xem lạ nẻo,
Ðường Tiên từ đấy hết ngăn rào.

Thâu

Hồ Liên Hương:

Mười hai bến đậu đã nên duyên,
Phải gió êm đưa vững chiếc thuyền.
Cỡi phụng chờ ngày tu đắc Ðạo,
Phi thường há để khuất thuyền quyên.

Thâu

Thầy dặn rằng: Thầy đến chẳng phải lập một nền Ðạo mới mà đặng nhắc các con rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ vương sắp đến, Thánh ngôn các Ðạo đã khai từ thuở tạo Thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Ðời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giả, bịnh chướng biến sanh, thiên tai rấp đến. Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng: Ngày tận thế đã đến. Thầy đã tạo thành trọn đủ Pháp Luật. Thầy đến chỉ độ kẻ vô Ðạo, chớ không phải sửa Ðạo. Con hiểu à.

 


 

Q.2-039. Ngày 28-12-1926 (âl. 24-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Mardi 28 Décembre 1926 (24-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Thầy dạy kẻ vô lễ chẳng đủ y phục xuất ngoại. Chỉnh đàn Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, Thụ bình thân con.

Ðàn Thổ hầu đàn: Biểu chúng nó quì hết một lần bái lễ rồi ra ngoài. Thầy thâu hết.

Châu Văn Cho:

Cho bền dạ sắt với lòng son,
Thiên Ðịa dầu qua Ðạo vẫn còn.
Thánh đức còn mong ngày biến hóa,
Chơn thành hồn thượng há phai mòn.

Thâu

Hưng:

Hưng thời còn có lúc suy thời,
Cuộc thế xem ra một cuộc chơi.
Dụ khách phồn hoa xa nẻo tục,
Dẫn đường cho lạc nẻo về Trời.

Thâu

Ninh:

Ninh nang một thuở xác đeo mình,
Phải biết chí linh tẻ trọng khinh.
Lập thế chưa ai toàn hưởng thế,
Trông mong chi đặng chữ hòa bình.

Thâu

Cam:

Cam La trước trẻ đã công hầu,
Bảy chục Khương Công nhẫn nhấp câu.
Mua cuộc danh phàm đời lắm nhọc,
Huống hồ đường Ðạo bước cao sâu.

Thâu

Sô:

Sô sa chi xác cũng hôi tanh,
Gớm mặt mà chê dạ chẳng đành.
Có xác phàm trần làm xác Thánh,
Cũng bằng dụ quỉ đặng làm lành.

Thâu

Tùng:

Tùng Thiên an mạng rán làm lành,
Ðừng kết oán đời chác lợi danh.
Bao thuở đầu non chim vắng dạng,
Thị thiền càng thấy bắt buồn tanh.

Thâu

Tương:

Tương nghe Trời Phật chí công bình,
Ðến cận rõ coi thật hiển linh.
Oan khúc nỗi đời thôi chán ngán,
Tư bề nào biết cậy ai binh.

Thâu

Toàn thâu 60 Thiện Nam, 21 Tín Nữ.

 


 

Q.2-040. Ngày 29-12-1926 (âl. 25-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy "Lão giải nghĩa có ba phẩm đồng tử phò loan" & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Mercredi 29 Décembre 1926 (25-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH KIM TINH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Cười... Quờn nghe Lão. Việc cơ bút Hiền Hữu tuy chưa rõ thấu huyền diệu cho trọn mặc dầu, chớ kỳ trung cũng đã hiểu biết chút đỉnh; chẳng phải ai cầm cơ mà đều đặng huyền diệu hết.

Lão giải nghĩa có ba phẩm đồng tử phò loan:

  • Một là Giáng Tâm.

  • Hai là Mê.

  • Ba là Giáng Thủ.
    Tây phương gọi Intuitif, Semi-intuitif et Automatique.

Thầy đã cho Hiền Hữu chấp cơ một đôi khi quả có huyền diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân Hiền Hữu nó lại choán lấy Thiên ý mà dịch trật. Vì vậy mà Hiền Hữu nhiều phen thất chí, nhứt là khi thai bào con Hiền Hữu hiểu à....

Thầy dạy Hiền Hữu cùng Phước Sanh chọn kẻ khác cầu Thầy, hầu truyền bá Ðạo nơi tỉnh Biên Hòa nghe à.

Chỉnh đàn Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Chúng Sanh. Thiên Phong bình thân.

Voi, con mời những em Thổ Nhơn con vào trong hết lạy Thầy.

Thâu sớ. Thâu hết.

Hiếu, con phải trọng hậu chúng nó con nghe.

Chư Chúng Sanh thượng sớ, nữ Thổ Nhơn nữa. Thâu sớ.... Cười.... Hiếu vô hành lễ con, Nữ phái trước.

Ðiều:

Ðiều hòa tâm tánh phận con hiền,
Phải biết kỉnh nhà chúng mới kiên.
Ðừng thói xua chồng và hiếp bạn,
Nên giềng nhờ có nội tề quyền.

Thâu

Cang:

Cang cường quen tánh hiếp dân nghèo,
Nghe Ðạo Phật Trời cũng muốn theo.
Chẳng khác chồi non xô đại mộc,
Cũng như lên vực sóng toan trèo.

Lui.

Thêu:

Thêu phụng chưa quen nét vẽ hay,
Hạnh kia dầu đặng cũng hơn tài.
Hiếu trung đã đủ đôi thân trả,
Mua phẩm Thần Tiên sẽ bán nài.

Thâu

Nao:

Nao lòng đừng sợ nhọc thân con,
Chữ hiếu chữ trung gắng giữ tròn.
Ðợi buổi xuân xanh qua khỏi cửa,
Ðưa thề có tiếng nước cùng non.

Thâu

Thiệt:

Thiệt thòi giữ phận thiệt thòi đời,
Ðể kẻ hung hăng được ngạo chơi.
May một lẽ đâu Trời phụ khó,
Càng xa bước khách lại thêm lời.

Thâu

Quế:

Quế đứng non cao mấy kẻ tìm,
Thay lông nhẹ cánh đở mình chim.
Nhiều cay đắng hưởng làm khôn khéo,
Nhiều đạo đức kêu thế mới mềm.

Thâu

Nam toàn thâu.

 


 

Q.2-041. Ngày 30-12-1926 (âl. 26-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Jeudi 30 Décembre 1926 (26-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh, Chưởng Pháp Hiền Hữu bình thân.

Chỉnh đàn Thầy ngự.

 


 

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con... Thụ bình thân con. Voi hành lễ. Chư nhu thượng sớ. Thâu Thổ nhơn.

Vàng:

Vàng chứa đầy kho chẳng ích chi,
Sao bằng chứa đức cháu con ghi.
Cửa Trời vì có ngày kia mở,
Là đức thế gian ít dám bì.

Thâu

Chắc:

Chắc trí chẳng ai đặng chắc lòng,
Cứ tham lợi lớn với dày công.
Lửa đời chưa mãn ba nhang lụn,
Xác thịt tiêu hao nghiệp cũng vong.

Thâu

Nhiều:

Nhiều nhơn quả trước phải đền nay,
Chẳng gỡ cho kham cứ nhắc hoài,
Một tiếng than van thân cực nhọc,
Một oan chẳng chịu muốn gầy hai.

Thâu

Suối:

Suối lành chảy nước hóa sông thanh,
Trăm hạnh chưa phen một nết lành.
Trước muốn toan đưa chơn cửa Phạm,
Thì lo trau chuốt tấc lòng thành.

Thâu

Thảo:

Thảo ngay con vẹn giữ cho bền,
Phải phận là trên đáng bực trên.
Dìu dắc đàn em sau nối gót,
Con đường đạo đức bước càng lên.

Thâu

 


 

Q.2-042. Ngày 31-12-1926 (âl. 27-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.

 

Vendredi 31 Décembre 1926 (27-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Chưởng Pháp bình thân. Voi hành lễ. Thầy không ngự, Lão thâu sớ. Thượng.

Trung:

Trung dung khá giữ Ðạo từ đây,
Hễ chắc tớ hay gặp chánh Thầy.
Lừa lọc lắm phen tìm cảnh quí,
Rộn ràng nhiều buổi kiếm đường mây.
Chia thơ chàng Tịch còn trông gặp,
Dựa nẻo chú Ngư có thuở vầy.
Ðắc lộ Tương Như còn khảy ngón,
Thương câu tuyết hứng đến nơi nầy.

Chờ mạng Thầy.